phạm ngũ yên
1.
Khi những hoa sứ vẫn nồng nàn đậu trên phố đêm đêm, thì tôi
đã xa Vũng Tàu thật lâu. Mảnh trăng vỡ trên đầu ghi dấu một mùa trăng tháng
giêng cũng xa rồi. Làm sao để thổi tắt ngọn lửa trong lòng cứ cháy miên man về
một tình yêu đầu đời. Làm sao để cho lòng cố quên khi con tim vẫn còn muốn
nhớ?
Một ngày nào tôi không còn nghĩ về nàng. Liệu có được hay
không? Trái tim dù có khô như lá thu, nhưng nó vẫn nằm im trong lòng ngực. Nên
khi tình yêu không còn đươm hoa, tôi vẫn không thể quên được nàng dễ
dàng.
Những chiếc ghe đi ra khơi khi trời tịnh yên. Và trở về vài
ngày hôm sau. Mùi vị của muối làm rít róng cơ thể. Hương vị của Tết và mùi khói
pháo còn lảng đãng trong không khí Người ta vẫn còn tiếp tục vui chơi trên những
đoạn đường chạy dài ra phố. Mọi cửa hàng đều mở cửa bán lại. Hình như đêm tháng
giêng dài hơn vì đã khuya mà tiệm quán còn mở đèn. Tôi ngồi ở quán cà phê góc
đường Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Thái Học, nhìn ra gió đêm đang thổi tung những tá áo
bên ngoài. Quán có tên là Anh Ðào (trùng với quán Anh Ðào ở Blao), vừa bán kem
vừa bán cà phê, có ba cô con gái đẹp đứng bán hàng. Cả ba cô không biết có từng
là nữ sinh của thành phố của tôi hay không, nhưng ít nhiều ẩn dấu trong mắt họ
một chút trùng khơi và một chút nắng gió khi họ cười. Tùy theo tuổi tác của mỗi
cô mà mỗi ngày đều có các cây si được trồng lên trong quán. Đa số các cây si gốc
gác nhà binh.
Vũng Tàu là một thành phố biển. Thành phố nhỏ của du lịch
đồng thời là một thành phố của quân trường. Các quân trường huấn luyện các ngành
chuyên môn thời Cộng Hòa đa số đều đặt cơ sở tại đây. Trong phạm vi thành phố có
Trường Quân Cảnh, Trường Thiếu Sinh Quân, Trường Sinh Ngữ Quân Ðội. Nằm phía
ngoài một chút là Trường Truyền Tin, Trường Cảnh Sát Quốc Gia, Trường Xây Dựng
Nông Thôn. Xa một chút nữa là Căn Cứ Hải Quân và một đơn vị nhỏ đào tạo Người
Nhái tại Cửa Lấp, gần ngả ba Cầu Cháy. Ra khỏi Vũng Tàu, giáp ranh với Bà Rịa có
Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp.
Những binh chũng không hẹn mà gặp nhau tại quán Anh Ðào.
Hình như vậy. Ông bà chủ quán từng có thời là những trí thức của thành phố, tôi
không biết hai người về Vũng Tàu làm làm ăn từ bao giờ. Chỉ biết là khi tôi
chuyển về làm huấn luyện viên tại quân trường Truyền Tin thì tôi mới biết có một
quán kem và cà phê có tên là Anh Đào. Quán nằm giữa Pharmacie Hoàng Mộng Giác và
một căn phố riêng của gia đình Lý Thế Ký. Kem là thực đơn chính. Cà phê chỉ là
phụ. Nhưng khách hàng lại thích kêu cà phê, thay vì gọi những ly kem ba màu, hay
dâu tây có rắc đậu phong bên trên. Chỉ vì một mục đích duy nhứt là ngồi đồng
trong quán càng lâu càng tốt.
Ông chủ quán dáng
người tròn trịa, dể tính, không thấy làm gì hết, ngoại trừ ở trên lầu đọc sách
và chơi dương cầm. Mọi chuyện do bà vợ và các cô gái quán xuyến. Lâu lâu ông
ngậm ống vố, xuống lầu, ra đứng trước quán nhìn mông lung. Đàng sau khung kính
cận thị kia là đôi mắt lơ đảng đang ghi nhận một đường chiều mịt mùng cùng những
dáng người đang mệt mề cơm áo. Bụi bậm mỗi ngày như phấn mỏng phù hoa đôi lúc có
làm ông xốn xang? Tôi không biết. Nhưng tôi biết tâm hồn ông đang bị dằn vật
giữa những hạnh phúc mộng mị và những ốm đói cơ hàn. Của có và không trong một
xã hội bị mất dần dà những tình người, những nhân cách.
Nghe nói ngày xưa ông yêu bà khi hai người còn là sinh
viên. Khi mà cái thời sách vở và trường lớp không hoàn toàn là bối cảnh lãng
mạng của đôi tình nhân học trò. Họ không còn cơ hội nắm tay đi qua những hàng
phượng bên đường và thầm thì với nhau những lời lửa cháy. Mà họ chỉ còn kịp thổn
thức vì những tiếng nổ trong thành phố. Những cuộc xuống đường hôm qua và những
cuộc bắt bớ ngày hôm sau đã đẩy họ về một nghịch cảnh. Không có sự tròn trịa của
một đám cưới và lời mừng trăm năm. Không có những bạn bè nhìn lên sân khấu để
chia xẽ cùng họ một tương lai hồng và hạnh phúc vặm vỡ. Họ nắm tay đi ngược lại
con đường mà đa số thanh niên thiếu nữ ngày đó từng dẫm lên, để đi trên những
gai góc tự nguyện. Tâm hồn họ đang lạnh như sương và buồn như
sông.
Bà vợ, dáng người nhỏ con, gương mặt còn phảng phất vẻ đẹp
thời niên thiếu. Bà thường xuyên đứng trong quán, điều hành tổng quát công việc
mua bán. Lâu lâu quan sát các “cây si” coi có la đà hay quá trớn với ba cô con
gái rượu hay không. Các đấng nam nhi quyết tâm rình chờ cơ hội bà bận bịu trong
bếp, bèn buông những lời tỏ tình với các cô. Có những lời tỏ tình được kết quả.
Có những lời tỏ tình bay từ lổ tai này sang lổ tai kia, và đi vào quên lảng. Nếu
ai đó được may mắn đôi chút, là bởi vì đã từng ”đóng hụi chết” triền miên cho
quán từ ngày nọ sang tháng kia, thì sẽ được một vài cô ra ngồi nói chuyện lúc
uống cà phê. Ðại khái là những câu hỏi thăm sức khỏe, hoặc điều tra nghề nghiệp
một cách khoa học, như “dạo này anh làm ăn ra sao”.” Lâu không thấy anh ghé
quán”. Hoặc “trí tuệ” hơn thì hỏi đã đọc “Ngày Sinh Của Rắn” của Phạm Công Thiện
chưa? Hay phim “Người Tù Khổ Sai” của Papillon có màu sắc ảm đạm quá...” Nhưng
đó là bối cảnh của trước ngày 30 tháng tư.
Hà là cô gái ở giữa những điều kể trên. Nàng bình dị và hơi
yểu điệu. Nàng đẹp và mảnh mai như một cây sậy. Nhưng ngầm dấu đàng sau cái dáng
điệu thục nữ kia là những quyết tâm dứt khoát. Tôi biết rõ điều đó khi tôi thân
thiết với nàng.
Tôi đến quán uống cà phê, chỉ khi nào đi ngang thấy có nàng
trong đó. Sau ngày mất nước tôi không còn thói quen ngồi nhâm nhi cà phê trong
bất cứ một không gian hay bất cứ một thời gian nao, vì túi tiền không cho phép.
Nụ cười nàng dành cho tôi, hình như không giống với nhiều người khác- (hay tôi
chỉ tưỡng tượng). Ðôi lúc nàng có làm dáng, nhưng không phải vì vậy mà tôi không
nhìn thấy sự tuyệt diệu của nàng. Trong lúc hai cô kia, Hoa, trang nghiêm hơn và
ít cười (giống như mẹ nàng). Và Tuyền, cô bé có mái tóc “demi garcon” có đôi lúm
đồng tiền trên má. Những khát khao về một lời tỏ tình nào đó đậu xuống trên mặt
bàn tròn bằng mi ca sao giống như sự yếu đuối của một tình yêu mơ hồ. Giống như
vạt mưa đang xối xả trên bờ thềm xi măng ngoài sân quán. Tôi thấy tôi mỗi lúc
một bị đẩy xa ra khỏi đời sống quen thuộc của Hà, cùng những mênh mông ướt nhòa
nỗi nhớ.
2.
Sau 30 tháng 4 tôi ít thấy những cô bạn gái thời niên thiếu
của tôi. Một số lập gia đình phương xa. Một số bươn chải ngoài chợ đời để tìm
cách nuôi con và nuôi chồng trong các trại tù CS. Một số khác vượt biên. Có biết
bao dâu bể và mọi cô gái thanh xuân đang trôi trác về một định mệnh vỡ òa những
tai ương. Tôi không nhớ hết và không biết được hết có bao nhiêu người bạn của
tôi đã ra đi như vậy. Vì họ không từ giả tôi. Còn lại vài gia đình như gia đình
Hà và những cô gái đang lớn khôn trên sầu đạo. Đàng sau quầy tính tiền, Hà vẫn
nhìn tôi và cười thay cho lời nói.
Ðôi mắt nàng long lanh như những giọt cà phê màu sáng rụng
xuống ly. Xa nàng nhiều năm, tôi không nghĩ rằng trong trái tim của nàng còn một
chỗ dành cho tôi. Khi tôi quyết định không còn lang thang ở Sàigòn và sau đó từ
khu Kinh Tế Mới Phú Mỹ trở về, Hà hỏi mượn tôi một cuốn sách, một cái cớ để nối
lại những tình cảm đứt đoạn. Trong khi tôi mặc cảm về đủ mọi chuyện. Không ai có
thể giàu có để tiêu pha rời rộng một khi đời sống khó khăn làm cho con người
luôn bận tâm với những vật chất tầm thường nhất. Chỉ có một thứ để tiêu pha mà
không dè sẻn, đó là thời gian.
Từ Sàigòn về, tôi “ăn bám” gia đình trở lại. Mẹ tôi bán lần
hồi những tài sản dành dụm được trước kia, để cầm cự chờ thời. Danh từ chờ thời
nghe sao nhục nhằn và phù phiếm quá.
Tôi khuấy đường bằng chiếc muổng nhôm mỏng manh. Tiếng nhạc
nghe xa vời, như tiếng thầm thì của sóng biển xô vào bờ cát. Mùa xuân ngỡ ngàng
vì cả nước đang “thay da đổi thịt”. Không còn những bài hát ươm mật tình yêu một
thời mà là những bài hát dập dồn xung trận, đòi xẽ dọc Trường Sơn. Âm điệu mang
hơi hám nhạc Tàu thời Mao Trạch Ðông phất cờ làm cách mạng văn hóa. Ngoài sân
quán ngọn điện lầm lũi buông ánh sáng vàng khô xuống cơ ngơi của người thợ sửa
xe đạp. Đó là người bạn học cũ của tôi. Anh đang hối hả thu dọn đồ nghề. Một
người bạn học khác cúi đầu ghi chép trên bàn vé số. Dưới ánh sáng của mọi ngọn
điện như vậy, là những nghị quyết. Nên cả nước mù căm hi vọng. Và mù căm cả
tương lai.
Hà vẫn ngồi trước mắt tôi. Một tay nàng chống cằm. Tôi nhớ
thời niên thiếu của tôi. Chưa biết đến tình yêu và ngày đó chắc Hà còn thơ dại ở
Sàigòn. Ngày đó chắc Hà là một cô bé con còn ăn quà vặt nơi những gánh hàng rong
bên đường. Tôi nhớ tiếng cười dòn tan của Hà. Một trong những cuốn sách tôi cho
nàng mượn là cuốn Tầng Ðầu Ðịa Ngục, của Solzhenitsyn, phát hành trước ngày 30
tháng 4. Hình như người dịch là nhà văn Hoàng Hải Thủy. Nhiều chục năm trôi qua
tôi quên mất một vài nhân vật và một số tình tiết. Chỉ biết rõ ràng là tác phẫm
quá hay, làm tôi buồn và thổn thức một thời gian. Nhà văn Nga đã kể lại đời sống
của tù nhân trong trại tù thời Staline. Một trong hàng ngàn trại tù Cộng Sản
Nga. Ðời sống vật chất của tù nhân dĩ nhiên là thiếu thốn đủ thứ, trong khi tinh
thần bị căng thẳng. Trong tù, mọi người đều bị theo dõi, rình rập ngày đêm và có
thể bị đem đi hành quyết bất cứ giờ phút nào. Trong suốt mấy trăm trang giấy,
tác giả đã chỉ cho độc giả thế giới bên ngoài một kinh nghiệm về chính sách cai
trị của mọi chế độ cộng sản từ đông sang tây. Ðó là sự quản lý con người và họ
luôn tự hào coi đó là một nghệ thuật. Nghệ thuật cai trị bằng sự đàn áp. Theo
nhà văn Duyên Anh định nghĩa, thì danh từ quản lý con người, nhất là con người
đang trong hoàn cảnh mất tự do- như trong các trại lao động khổ sai- gồm có bắt
bớ, giam giữ, hỏi cung, tra tấn và thủ tiêu. Và cái nghệ thuật quản lý con người
(hay tù nhân) sẽ lên đến giai đoạn cao nhất là không cho con người (hay tù nhân)
có cơ hội để chống đối và nổi loạn. Ðó là kết quả chung cuộc và niềm hảnh diện
tuyệt vời của mọi đỉnh cao trí tuệ. Trong đó có đỉnh cao trí tuệ Việt
Nam.
Ðoạn cuối, bi đát nhất là cảnh tả đoàn xe chở tù đi Tây Bá
Lợi Á làm khổ sai. Ðàng sau những năm dài khổ sai sẽ là sự hũy diệt. Vì rất ít
ai bị khổ sai ở Tây Bá Lợi Á mà hi vọng sống sót để trở về. Những đoàn xe chở tù
nói trên chạy ngang qua thành phố Mạc Tư Khoa, qua những đường phố đông đúc
người qua lại. Giữa những ngày đông tuyết giá
trơn trợt. Mọi người qua đướng nép lại. Họ lơ đảng nhìn chuyến xe vượt
qua, không ai biết rằng bên trong lòng xe kia từng có thân nhân kém may mắn của
họ. Những chiếc áo tù được vẽ bằng những con số mệt lã trùm lên những xác thân
ốm đói, tuyệt vọng. Nhưng bên ngoài thùng xe được ngụy trang bằng những dòng chữ
rất nhân đạo, rất tình người: “Xe chở thực phẩm cứu
trợ”.
Tác phẩm không biết làm xúc động thế giới tự do bên ngoài
như thế nào, chứ riêng tôi, những người đang sống trong hoàn cảnh Việt Nam sau
một cuộc đổi đời đã vô cùng xúc động khi đọc
xong.
Nhiều năm sau, khi còn ở trong nước. Còn ở trong lòng chế
độ “ưu việt” của cộng sản, tôi đã hiểu thế nào là sợ hải và gian dối. Sợ hải làm
cho con người học biết gian dối. Ðó cũng là một nghệ thuật cai trị và quản lý
con người của chính quyền cộng sản, ngoài nghệ thuật làm cho bao tử con người
lúc nào cũng thấy đói.
Một lần mẹ của Hà phàn nàn với tôi là đã cho nàng mượn
những tác phẩm thuộc về “văn hóa đồi trụy”. Bà tỏ vẻ không bằng lòng về chuyện
này. Tôi không biết trả lời với bà làm sao. May mắn vì tôi là bạn của con gái
bà, nên câu chuyện dừng lại ở đó.
Vài lần tôi ra ngồi ngoài bờ biển, nhìn những cánh hải âu
bay trên sóng. Mơ tưởng một cuộc đời bên kia Thái Bình Dương. Bầu trời xanh thẳm
trên đầu và những gợn mây mềm mại không muốn bay đi. Như những số phận không
muốn đào thoát ra khỏi nghịch cảnh. Ngày sẽ tàn, héo hắt vạt nắng xuân thì và
tiếng chân mệt mõi trên bờ bãi nước ròng. Trong trái tim đứa con trai già háp vì
đời đã căng chật một nỗi buồn. Nỗi buồn nào cũng đốt cháy mộng ước và ngăn trở
mộng ước nở hoa. Một lần tôi tình cờ gặp Hà đang tắm ngoài bãi. Chiếc bikini màu
đỏ như một đóm lửa khao khát mùa đông. Trong khi tôi khao khát một nỗi đam mê
rất đời là được ôm Hà trong vòng tay. Hà có vẽ ngượng khi bộc lộ một phần cơ thể
trước mắt tôi. Nàng không cười như mọi khi và tôi cũng ngượng, không muốn ngồi
lâu. Tôi từ giả nàng để trở về.
Mùa xuân se sắt và mai mốt sẽ tàn như một mùa trăng. Những
vì sao đêm có còn nhấp nháy trên trời để ngọn hải đăng có cơ hội quét ánh sáng
của nó trên mặt nước no đầy bất trắc? Hà quyết định vượt biên sau đó. Người bạn
đồng hành là Bé Tư, một thanh niên trẻ hơn nàng vài tuổi, cách nhà nàng một góc
phố, từng yêu nàng say đắm. Trước ngày lên đường, Hà hỏi tôi có muốn đi chung
hay không? Ðiều kiện là một ít vàng bỏ ra để phụ tiền mua dầu. Tôi ngẩn ngơ
không biết trả lời sao. Lúc đó tôi vừa mới lập gia đình. Tôi không đủ tiền để
tham dự vào một trò chơi ít nhiều may rủi. Tôi cũng không tin vào sự tháo vác
của Bé Tư. Không tin chiếc ghe một block có khả năng vượt qua những gian nguy
biển cả. Những niềm tin cạn kiệt theo thời gian trưởng thành của chế độ. Tôi
chấp nhận một tình yêu tàn dần theo nỗi nhớ xanh xao của Nguyễn
Bính:
“Người đi phương ấy sao mà
lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy
mươi...”
Và cũng như Nguyễn Bính, tôi oán trách nàng. Sự oán trách
vô lý:
“Một trăm con gái thời nay
ấy
Ðừng nói ân tình với thủy
chung”
3.
Những mối tình đẹp tuyệt vời đi qua đời một người con trai.
Hơn ba chục năm trước tôi trải tấm lòng của tôi ra như một tờ giấy trắng. Những
tình yêu qua đời giống như những vết mực. Hơn ba mươi năm sau, những vết mực
ngày xưa vẫn còn ngổn ngang trên trang giấy lòng thơ dại, như chưa hề bị mưa
nắng làm hoen ố. Như chưa hề bị thương tật làm trầy trụa. Những vết mực vẽ xuống
muộn màng một hạnh phúc hay sớm sủa một thương đau, đều là những bài học sống
tuyệt vời.
Người đàn ông sáu mươi tuổi một hôm ngồi lại bên bến nước.
Biển trước mặt và trời xanh trên đầu.
Mùa xuân Mỹ Quốc vẫn còn gió lạnh trên mái che, trên ghế
ngồi. Những con hải âu bay chao đảo trong sương mù. Giống như tôi, chúng đang
tìm kiếm một niềm tin hay tìm kiếm một quá khứ đã đánh mất? Ngoài kia con đường
dẫn quanh co ra một khu siêu thị ồn ào. Có những khóm hoa màu tím xanh run rẩy
như viền mắt của ai chờ đợi một bờ môi đắn đo đậu
xuống.
Chuyến buýt công cộng từ đâu trôi giạt tới, ngừng lại. Một
người đàn bà bước xuống cùng những bước đi an nhiên. Mái tóc tung xổ trong gió
mai và trong sương sớm. Chiếc khăn choàng quấn hờ hững trước ngực bay ngược về
phía sau. Ðôi môi màu đỏ như muốn cười cợt với những bộ hành đi ngược về phía
nàng. Tự dưng tôi nhớ Hà vô cùng. Không biết nàng có tìm được bến bờ tự do như
đã từng mơ tưởng? Tôi nhớ tiếng cười khoan dung của nàng. Ðôi mắt ngời sáng một
nỗi tự tin và bước đi mềm mại như một con sơn miêu. Tôi nhớ đến dáng ngồi chống
cằm trong quán cà phê quen thuộc của nàng. Nàng muốn tìm gì sau một mùa đông khi
những hoa sứ rơi miên man bên kia đường đối diện? Hay nàng muốn tìm gặp một dòng
sông, nơi sẽ bắt đầu cửa biển, để khoan thai giả biệt phố phường? Tất cả, đối
với nàng, luôn là một ngày vui tiếp nối những ngày vui. Như một trường ca không
có một nhịp buồn trong đó. Ðời sống tôi rồi sẽ ra sao, khi không có dáng dấp
nàng bên cạnh?
Những ngọn lửa cháy trong lòng, muộn màng, sáng nay, khi
những tươi mới của thanh xuân không còn.
Trong mờ ảo của sương, những cây đổ tùng như sậm màu hơn.
Những cây Italian Cypress có ngọn nhọn hoắc chỉa ngược lên trời. Không khí gợi
nhớ một Ðà Lạt mùa đông, khi tôi còn lính tráng. Một lần tôi đứng một mình bên
thành cầu Thủy Tạ. Nhìn xuống mặt hồ Xuân Hương. Những khóm dã quỳ mọc tràn lan
bên sườn đồi dẫn về khu nhà thờ Lớn đường Hai Bà Trưng. Màu hoa có một thời đã
trở thành biểu tượng của thành phố núi. Ai đó đã thơ mộng hóa cho rằng Ðà Lạt là
thành phố của tình nhân. Một thành phố buồn và “vừa đi đã
mỏi”.
Mùa đông không lạnh nhiều như tôi tưởng. Trong khi vài
thành phố phía bắc Hoa Kỳ đang có tuyết và tin tức trên truyền hình cho thấy
Nhật Bản cũng có tuyết dữ dội. Những đụn tuyết cao gần đụng đầu người và Ấn Ðộ
thì đang lạnh nhất trong vòng 70 mươi năm trở lại. Gió rít ngoài mái che. Những
âm thanh lướt thướt va vào nhau giống như những tiếng thở hổn hển từ một tình
yêu vội vàng.
Chiến tranh có làm mất mát nhiều thứ đồng thời cũng bù đắp
nhiều thứ. Nhưng tình yêu thì không bao giờ. Tình yêu cũng như mây trời. Ðến rồi
đi.
Người đàn ông sáu mươi tuổi -mà người bạn đời vừa dửng lại
ở một chỗ rẽ- không còn cơ hội để ghi xuống một địa chĩ hoa dẫn về một căn nhà
ai có bếp lửa sưởi ấm. Hay không đủ thời gian để rượt đuổi một mùa xuân vừa mất
dấu bên đời. Mọi thứ đều trở thành muộn màng. Mọi tấu khúc đều trở thành sai
nhịp.
Kinh nghiệm về một mối tình sẽ không giống nhau, như mùi vị
của một ly cà phê trên đầu lưởi. Khi còn trẻ, người ta không thấy đau khổ nhiều
vì đánh mất một món đồ giá trị. Chỉ khi về già, người ta mới nhận ra được cái
giá trị của sự nắm bắt hời hợt. Cho nên nỗi buồn được nhân rộng
ra.
Mùa này vẫn còn đó những cơn mưa. Một chút mưa ngập ngừng
trên đường chiều hay ào ạt từ buổi sáng sớm sẽ giữ chân khách bộ hành trong quán
cà phê. Ðể tìm trong cái rét ngọt của mùa đông một chút ấm áp của mùa xuân. Và
ly cà phê đậm mùi sẽ lan tỏa trong một góc không gian nỗi thao thức không thành
lời, không tên gọi.
4.
Mùa thu năm ngoái, khi Trần Nho Bụi (Trần Văn Minh- Rạch
Dừa) từ Canada sang thăm tôi tại Austin, hắn tiết lộ về tin tức của Hà. Hình như
Hà đang định cư tại Úc, và có một lần nàng về chơi ở Quận Cam. Hắn cũng không
nói thêm về đời sống, hoàn cảnh của nàng, vì hình như Trần Nho Bụi chỉ biết điều
này qua một người bạn khác, là Phạm Gia Trí, cũng dân Vũng Tàu, nhưng học dưới
tôi nhiều lớp.
Lúc Hà rời VN, Vũng Tàu đang là tháng ba. Người ta nói
“tháng ba bà già đi bể”. Có nghĩa là thời tiết tốt đến nổi một bà cụ đi thuyền
ra khơi cũng bình yên, không hề say sóng. Thời gian Hà xuống ghe tôi có biết
mang máng nhưng không bận lòng. Vợ tôi đang bị hư thai và tôi không còn lòng dạ
nào để nghe ngóng về một chuyến đi.
Khi vợ tôi trở lại bình thường, cũng là lúc tôi nghỉ đến sự
an nguy của nàng. Một người đi xa trong thời đó có nghĩa là sẽ mang theo những
giông bão trên vai. Và những ký ức cũng sẽ ray rức hay biến dạng theo từng thời
gian, từng hoàn cảnh. Tôi thầm mong nàng đến được bến bờ tự do và tìm thấy hạnh
phúc như bao nhiêu người con gái khác.
Chiếc quán kem Anh Đào tôi không ghé lại một lần nào khi
nàng ra đi. Nhiều đêm, có dịp tôi đi ngang qua đường Trần Hưng Đạo. Một góc
đường khác nối với quán của gia đình nàng chạy thẳng ra biển, mang tên cũ là
Nguyễn Thái Học. Đêm đầy gió mát và những vì sao lấp lánh trên trời. Tôi hình
dung ánh mắt của nàng cũng giống như vì sao kia. Hai vì sao riêng tư của đời
tôi, sẽ không bao giờ chìm khuất dù nhà cao tầng mọc lên hay mưa đêm dạt dào qua
phố. Trên biển đời bao la, tình yêu của tôi dành cho Hà- nếu có còn sót lại
trong trái tim nàng- hi vọng sẽ trở thành ngọn hải đăng để soi rọi hành
trình.
Ngày xưa tôi yêu nàng say đắm, dù tình yêu của tôi gần như
một chiều. Hà chưa từng nợ nần tôi một lời tỏ tình hay tôi nợ nần nàng một cử
chỉ bù đắp. Nhưng hơn ba mươi mấy năm trôi qua, dù tôi đi qua gần hết một vòng
tử sinh và qua bao nhiêu nẽo đường vinh nhục, tôi vẫn còn khao khát muốn gặp
nàng để trả lại tiếng cười trong veo ngày
ấy.
Vũng Tàu bây giờ nghe nói thay đổi nhiều. Những cây bàng
già trên đường ra biển ít đi vì người ta đốn ngã chúng để mở thêm đường. Không
biết những cây bông sứ trên đường ra Dinh Ông Thượng có cùng chung số
phận?
Có những cung phách làm nên nhịp điệu một cung đàn xưa, nên
tin tức về sự hiện diện của nàng, dù đang xa tôi gần một đại dương cũng đủ chạm
thành một tiếng lòng thổn thức. Những chiếc lá me vàng hai bên đường Lê Lợi, có
còn bay cả về đêm như tóc của nàng đêm giả từ phố
biển?
Con hạc trắng cuối trời biết tương tư khi soãi cánh bay qua
những lòng dâu bể. Nàng cũng vậy chăng? Trong khi tôi nghèo túng một tình yêu
đến nỗi không thể bay được đến Úc Châu với nàng, chỉ biết gởi sang bên đó những
tiếng cười từng làm một lời chim im bặt...
No comments:
Post a Comment