phạm ngũ yên
1
Dưới những trụ đèn khi qua cầu xa lộ, những ngọn đèn cháy muộn
chưa kịp tăt, giống như niềm tin được thắp lên. Và cũng giống như nỗi nhớ đã cột
tôi và nàng vào nhau khi mùa thu trở về.
Ðàng sau những bước chân là một tình yêu cuồng nhiệt. Mưa
mờ mịt một góc trời. Lá không còn rụng xuống trên những bờ môi đang tìm nhau
nhưng lạc nhầm địa chĩ, nên lá bay về một hướng đời mênh mông. Người đàn bà luôn
là một ẩn số, khi không còn yêu nhau họ sẽ khép kín trái tim họ, cho dù mỗi ngày
họ vẫn cười nói. Nhưng chúng ta sẽ lạc mất họ tình cờ ở một ngã ba và thời gian
sẽ cuốn họ đi như theo những băn khoăn của
đời.
Lẽ nào nàng không nhận ra một góc lòng lạc lõng của một
người đàn ông khi cố rượt theo một dấu chân mưa? Trời đã chớm thu rồi, nên buổi
sáng nàng phải choàng thêm một chiếc áo len đi làm. Tôi cũng vậy. Làm sao để
nhắc cho nàng biết rằng năm tháng cũng biết yêu khi mùa thu trở mình trên lá. Và
năm tháng cũng trẻ trung như tình đầu.
Có một màu hoa nhuộm trong lòng và cháy mãi sau lưng. Nhưng
đừng hỏi tại sao tôi lại yêu nàng say đắm?
“Hỏi anh vì sao anh yêu
em?
Hãy hỏi mặt trời vì sao tỏa
nắng
Hãy hỏi mặt trăng sao khi khuyết khi
đầy.
Ðêm màu đen và ngày màu
trắng
Ðừng hỏi anh vì sao anh yêu
em
Hãy hỏi biển tại sao có
sóng
Sao gừng cay và sao muối
mặn
Mùa thu trút lá vàng em có biết vì
sao?...”
(khuyết danh)
Những trái bí vàng chói đang được phơi bày trên các cửa
tiệm, nhắc cho mọi người nhớ đến ngày Lễ Halloween. Ma quỷ đua nhau xuống đường
đêm tháng mười, trong khi những mụ phù thủy ngồi trên các cây chổi bay trên mái
nhà.
Ngày tôi mới định cư, tôi ngạc nhiên khi thấy có lần trẻ
con gõ cửa nhà tôi xin kẹo. Bọn chúng vẽ mặt đủ kiểu, và hóa trang thành những
quái nhân. Nhưng đàng sau những thương tật kinh khiếp kia, vẫn là những dáng dấp
hồn nhiên. Chúng trẻ thơ và trang trọng bay qua những giấc mơ có kẹo bánh như
tấm lòng ướp mật. Cho dù đêm có tàn phai và ngày có nắng chói, chúng vẫn luôn là
dòng suối bình yên chảy mãi trong khu vườn tuổi
nhỏ...
2.
Tháng mười này tôi cũng muốn ghi xuống để kỷ niệm một vì
sao đã tắt. Trên bầu trời văn học lưu vong vì sao có tên là Mai Thảo đã không
còn và đầu tháng mười này đánh dấu mười năm ngày ông
mất.
Mai Thảo tên thật là Nguyễn Ðăng Quý. Ông là cháu gọi giáo
sư Nguyễn Ðăng Thục là cậu.
Tác giả “Tháng Giêng Cỏ Non” đã coi việc viết văn là một
nhu cầu cần thiết không thể tách rời trong cuộc sống. Như ánh sáng và khí trời
cho buồng phổi. Như bông hoa ngoài đồng cần thiết cho trái tim. Mãi đến khi nằm
xuống, ông vẫn luôn quan niệm dùng văn chương để làm đẹp cho
đời.
Cái nét chính trong ngòi viết của ông là sự tài hoa. Và sự
cô đơn cũng là nét chính trong đời sống của ông. Ông khao khát rất nhiều, nhưng
hình như vẫn không có gì nhiều trong tầm tay, ngoài muôn vàn những kính trọng mà
người đọc dành cho ông. Một tình yêu hay một nhan sắc cuối đời, người ta cũng
không nhìn thấy nơi căn phòng chung cư của ông, đường Westminster, quận
Cam.
Năm 1993 tôi về California, gặp lại Mai Thảo để nhờ ông đề
giúp lời tựa cho tác phẩm “Hoa Bluebonnets Cho Hai Người”. Ông già nua và phong
thái bớt đường bệ như ngày nào. Sau khi vượt biên bằng đường biển và định cư tại
Hoa Kỳ, Mai Thảo về Seatle sống với vợ chồng nhà văn Thanh Nam- Túy Hồng làm tờ
Ðất Mới. Khi Thanh Nam chết, ông về Cali tục bản lại tạp chí Văn. Từ chuyện chọn
bài vở, viết mục Sổ Tay mỗi kỳ, đến chuyện đem báo đi nhà in để in, chuyện viết
thư trả lời bạn đọc, gởi báo biếu cho thân hữu cộng tác, ông đều tự lo một mình.
Căn phòng nhỏ vừa dùng làm chỗ ở, vừa làm báo quán nằm trong chung cư phía sau
lưng tiệm ăn Song Long, đường Westminster. Chỉ có một chiếc ghế duy nhứt ông mời
khách ngồi. Còn ông ngồi trên giường. Một tủ lạnh nhỏ chứa đầy ruợu và sách báo
xếp đầy bốn vách tường. Nơi chiếc bàn dùng để viết hàng ngày có đặt bức ảnh của
Kiều Chinh. Chúng tôi nói chuyện. Vẫn những chuyện mưa bão, chuyện văn chương
trong nước và ngoài nước. Chuyện những người viết văn và làm thơ đương thời. Ông
rót rượu mời tôi, nhưng tôi từ chối. Ông uống một mình. Khề khà, chậm rãi. Buổi
chiều xuống ngoài thềm chung cư. Tiếng những bước chân khẻ khàng lên xuống cầu
thang và tiếng nói chuyện dưới hành lang vọng lên. Mọi thứ đều mang một vẽ bình
thản và mang một màu sắc đơn điệu.
Cây hồng đào đang vươn cành nhánh lên tận chỗ chúng tôi
ngồi. Màu hoa thắm thiết muôn đời. Chỉ có con người là tàn phai theo dâu bể. Tôi
nhìn gương mặt ông. Già nua hơn tôi hình dung. Lâu lâu tôi nghe ông văng tục
cuộc đời. Ông gọi phone tìm Du Tử Lê và Khánh Trường, kêu họ đi uống rượu với
tôi. Cả Du Tử Lê cùng Khánh Trường không đến được. Chỉ có Phan Tấn Hải đến.
(Phan Tấn Hải sau nầy viết xả luận cho Việt Báo, với bút danh là Trần Khải). Và
chúng tôi ra đường đi uống rượu lúc đêm tối. Giống như đêm của Sài Gòn xuống
đường không sợ giờ giới nghiêm. Dọc đường, Mai Thảo kêu Phan Tấn Hải dừng lại
trước một tiệm rượu do người Việt Nam làm chủ, bảo chúng tôi ngồi trong xe chờ.
Ông vào và trở ra với chai rượu cầm tay. Tôi không nhớ tên quán chúng tôi ghé
vào vì Phan Tấn Hải lái vòng vo, trong khi tôi mới qua ghé California lần đầu.
Chỉ biết quán có treo mấy bức tranh của Khánh Trường trên tường. Mai Thảo nói đó
là tranh do Khánh Trường vẽ để trừ nợ cho chủ quán. Màu sắc nóng hổi, dữ dội,
không thích hợp với không khí của một tiệm ăn. Mai Thảo nói: “Tôi muốn giới
thiệu cậu với Khánh Trường, để mai này hắn vẻ cho cậu cái
bìa”.
Mai Thảo không ăn nhiều. Hình như ông chỉ gắp một lần lúc
đầu bửa ăn. Thời gian còn lại chỉ uống. Phan Tấn Hải và tôi chịu thua, vừa ăn
vừa nhìn ông rót ly nầy đến ly khác.
Khi đêm đã khuya chúng tôi rời quán. Tôi định trả tiền
nhưng ông không cho. Ông nói với Phan Tấn Hải: “Cái thằng này nhà quê quá. Sao
nó lại dành trả tiền?” Ngoài sân tiệm ăn, tôi thấy ông đứng yên chưa chịu lên
xe. Dáng đứng chênh vênh và thân hình gầy gò. Chiếc áo len màu xanh dương đậm
sát nách có hai túi. Ông thọc hai tay vào đó và trầm ngâm. Chiếc bóng ngã sóng
sượt trên bờ thềm nhể nhại những vũng tối, như vũng lầy của cuộc đời. Người đàn
ông đã từng thao túng chữ nghĩa một thời đang thấm mệt rồi sao? Người đàn ông đã
gầy dựng tiếng tăm từ sau một Ðêm Giả Từ Hà Nội, từ một Tháng Giêng Cỏ Non đang
đi qua những bóng xế, chân mõi mòn dẫm lên những nhọn hoắc chông
đời?
Dù sao, tôi không nghĩ đó là lần gặp ông sau
cùng.
Khi Mai Thảo chết tôi hay tin. Một hai lần xe cứu thương
đưa ông vào bệnh viện rồi đưa về. Những trang Sổ Tay cuối cùng chập chờn những
chuyện tử sinh, đi ở. Tôi đọc từ đó, không thấy sự sợ hải và bất an. Mà thấy ông
vẫn bình thản coi sự sống chết như một chuyện đùa. Những trang văn lai láng
những giọt rượu từ một bàn viết cô độc, nhìn xuống khu Bolsa. Gió theo đêm về gõ
cửa căn phòng bộn bề sách vở và người đàn ông sống trọn đời cho văn học đã thao
thức, nhỏ máu từ trái tim mình đậu xuống chữ nghĩa. Tâm hồn ông luôn trang trọng
với những điều cho đi không màng lấy lại giữa cuộc đời, giống như những nét chữ
trang trọng ghi xuống ngoài phong bì cho những bạn văn. Không dời đổi. Những
người đàn bà đẹp đi qua đời ông, sừng sững có mặt trong suốt mấy mươi tác phẩm
để lại. Những người đàn bà đẹp và từng nổi tiếng một thời, trong đó hình như có
Vũ Nữ Cẩm Nhung (?) Những số báo Văn cuối thất thường và rời rạc. Ông sống một
mình nhưng lúc chết có nhiều người tiễn đưa. Ðám tang của ông rất đông người từ
phương xa về tham dự. Ông được chôn ở nghĩa trang quen thuộc mà dân chúng Bolsa
thường gọi tên là Peek Family Funeral Home, số 7801 đường Bolsa Ave,
Westminster, California. Có hoa tươi đặt trên mộ bia mỗi tuần. Những đóa hoa
thân tình của gia đình và luôn cả những đóa hoa trang trọng của người không quen
biết, chưa gặp ông lần nào. Người ta đọc thấy trên mộ bia của ông, hướng lên
trời, có khắc 4 câu thơ trích từ tập thơ do chính ông làm khi còn
sống:
“Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.”
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.”
3.
Mai Thảo
sinh ngày 6 tháng 8 năm 1927, tại Nam Ðịnh, Việt Nam. Mất ngày 1 tháng 10 năm
1998, tại Orange County, Hoa Kỳ. Cả hai lần di cư quan trọng xãy ra trong một
cuộc đời. Một lần năm 1954, từ Hà Nội vào Sàigon. Và lần thứ hai từ Sàigòn đến
Mỹ. Ông đặt chân đến California năm 1978, và sống ung dung một đời nghệ sĩ- 10
năm- cho đến khi nằm xuống.
Từ năm 1956 đến 1975 ông chủ trương tờ Sáng Tạo, một trong
những tờ báo văn học giá trị của Việt Nam Cộng Hòa, mở đầu cho phong cách sáng
tác mới. Những người viết chung với ông trong Sáng Tạo gồm có: Quách Thoại,
Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, Sao Trên Rừng, Viên Linh, Tô Thùy Yên, Trần Lê
Nguyễn, Nguyễn Huy Oanh, Nguyễn Văn Trung, Thạch
Chương...
Sau khi Sáng Tạo bị hết vốn và tự đình bản, năm 1973 ông
trông coi tờ Văn, trước đó do Trần Phong Giao và Nguyễn Xuân Hoàng thay nhau
điều hành. Sang Mỹ, ông tiếp tục tái bản tờ Văn ngay khi vừa chân ướt chân ráo
đặt chân đến thành phố tị nạn của người
Việt.
Mai Thảo có trên 30 tác phẫm, vừa tùy bút, truyện ngắn,
truyện dài. Tác phẫm đầu tiên là một tùy bút- “Ðêm Giã Từ Hà Nội”- và tác phẫm
cuối cùng là một tập thơ- “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Ðền”. Những tác phẩm khác,
phải kể đến, là: Tháng Giêng Cỏ Non, Bản Chúc Thư Trên Ngọn Ðỉnh Trời, Mái Tóc
Dĩ Vảng, Khi Mùa Mưa Tới, Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật, Viên Ðạn Ðồng Chữ Nổi, Ðêm Lạc
Ðường, Cùng Ði Một Ðường, Lối Ði Dưới Lá, Tới Một Tuổi Nào, Sống Chỉ Một Lần, Ðể
Tưởng Nhớ Một Mùi Hương, Những Người Tình Tuổi Song Ngư, Ði Giữa Giờ Giới
Nghiêm...
Trong một lần được phỏng vấn bởi một tạp chí ngoại quốc
(tôi không nhớ tên tạp chí) tôi đọc thấy ông muốn trở thành một tiểu thuyết gia-
muốn độc giả gọi ông là Tiễu thuyết gia- thay vì là một nhà
văn.
Những năm cuối đời, tác phẫm cuối cùng (Ta Thấy Hình Ta
Những Miếu Ðền) gây cho người đọc những tranh cải cùng những ngộ nhận. Một số
người nói ông cuồng ngạo. Nhưng trên hết, Ông vẫn là Ông và những dòng văn trên
từng trang giấy được nắn nót viết tay vẫn lóng lánh vàng ròng. Ông trang trọng
và nâng niu chữ nghĩa như nâng niu một người tình. Suốt đời ông vẫn là một người
cô đơn, độc hành đi qua những tinh cầu để tìm một manh đất tình yêu cũng cô đơn
không kém...
“Ta thấy hình ta những miếu
đền
Tượng thờ nghìn bệ những công
viên
Sao không, khói với hương sùng
kính
Ðều ngát thơm từ huyệt lãng
quên
Ta thấy muôn sao đứng kín
trời
Chờ ta Bắc đẩu trở về
ngôi
Sao không, một điễm lân tinh
vẫn
Cháy được lên từ đáy thẵm
khơi
Ta thấy đường ta Chúa hiện
hình
Vườn ta Phật ngủ, ngõ Thần
linh
Sao không, tâm thức riêng bờ
cõi
Ðịa ngục, ngươi là, kẻ khác
ơi!...”
Và:
“Ta thấy rèm nhung khép lại
rồi
Hạ màn, Thế kỷ hết trò
chơi
Sao không, quay gót tên hề
đã
Chán một trò điên diễn với
người
Ta thấy ta treo cổ dưới
cành
Rất hiền giấc ngủ giữa rừng
xanh
Sao không, sao chẳng không là
vậy
Khi chẳng còn chi ở khúc
quanh...”
tháng 10, 07
No comments:
Post a Comment