phạm ngũ yên
1.
Những cơn mưa phùn sẽ không tới kịp trong ngày hôm nay, để
làm tươi mát những con đường. Cái nắng đang chuyển mình chói chan để chạy đuổi
theo một mùa hè mang đầy biến động. Chuyện về chiếc cầu đã gẫy trên dòng sông
Mississippi, bắt ngang qua thành phố Minneapolis, tiểu bang Minnesota đã làm
rung chuyển nước Mỹ và soi mòn niềm tin về hệ thống giao thông ưu việt của Hoa
Kỳ. Thiên tai và biến động là những bài học quan trọng mà cuộc đời này có thể
nhận biết được, trong đó thông điệp về sự già nua và lão hóa cũng được gởi đến
mọi thể chế chính trị, mọi thời đại.
Thế giới luôn chuyển mình và những giá trị hiển nhiên của
đời sống cũng thay đổi theo. Mới đây tôi đọc tin tức trên báo thấy tòa nhà cao
nhất thế giới có tên là Burj Dubai đă được xây dựng và sẽ hoàn thành vào năm
2008. Dubai là một nước nhỏ bé trong Liên Hiệp Các Tiểu Vương Quốc Á Rập (UEA)
thuộc vùng vịnh Ba Tư. Cao ốc có chiều cao 1,601 feet (512.1 m) tính đến năm
2007. Nhưng các nhà phát triển tiết lộ rằng đến cuối cùng thì cao ốc có thể cao
đến 2,275 feet, với hơn 160 tầng. Kỷ lục cũ thuộc về cao ốc Sears Tower, tại
Chicago, cao 1,451 feet, gồm 110 tầng.
Ðứng bên cạnh những tòa nhà nói trên thì Empire State
Building tại New York (1,250 feet) chỉ là một chú bé khiêm
tốn.
Dù sao, khi chạy xe trên đoạn đường cao tốc mỗi sáng sớm
tôi vẫn thấy sự thanh thản trong lòng. Con đường 45 South nối liền Loop 1 để về
Hutto có một lúc nào đó phải ngang qua trạm đóng tiền. Ðây là đoạn cầu mới vừa
hoàn thành cách đây vài tháng, nối liền một quận lỵ heo hút miền đông của Austin
đến tận miền tây sầm uất là phi trường Bergtrom. Con đường đang có chiều hướng
phát triển và có khả năng trở thành một trong những con đường huyết mạch về kinh
tế trong tương lai.
Tôi chạy xe ngang qua những vùng thôn quê xen lẫn với những
khu nhà mới vừa dựng lên, để đến sở làm. Một vài khúc đường dẫn vào nông trại,
nơi đó người ta vừa mới vỡ đất lên luống trồng ngủ cốc, hoặc hoa màu. Những
đường cày thẳng tấp rực rỡ màu xanh hiện ra sau những ngày tháng khô hạn, giống
như niềm hi vọng ngạt ngào. Tôi không có dịp để tìm hiểu xem người ta đã trồng
trọt gì nơi đó. Vài con bò đứng ngơ ngẩn trông theo từng chiếc xe vụt qua. Những
con ngựa cũng vậy. Chúng đang lạc lõng yên cương và cúi xuống vạt cỏ dưới chân
như hồi tưởng lại thời vàng son, khi những vó câu dẫm lên những cánh đồng xưa
cũ? Những đóa dã quỳ vàng rực hai bên đường chạy theo hai bên xe như những màu
đời chạy đuổi theo những thanh xuân ngày nào. Khi tôi chưa trưởng thành. Một lúc
nào đó có tiếng mưa rung trên mặt kính xe, như tiếng của quá khứ rung trên tấm
lòng son trẻ. Khi đứa con trai chưa biết buồn vì đời còn mênh mông phía
trước.
Lúc tôi vào đời, mưa cũng từng cơn bay qua thành phố núi.
Biển của tôi xa khuất mấy trăm cây số đường dài đang âm thầm những tiếng sóng.
Có những tiếng sóng mất hút trong một ghềnh đá và quay trở ra khơi. Có những
tiếng sóng nằm lại trong lòng và thổn thức một vết thương.
Làm sao để nói lên thành lời những khao khát khi tôi và em
đang ở hai đầu đường nhìn về nhau ái ngại? Trong khi mưa đang xóa nhòa mọi dấu
vết trên đường chiều.
Tháng chín tôi đi vào quân trường. Tháng tám tôi còn đứng
chôn chân ngoài lớp học. Tôi vừa nghe tin mình thi rớt khi trong tay cầm chắc tờ
giấy gọi nhập ngũ thay cho mảnh bằng Tú Tài. Tôi biết mùa tựu trường tới đây
thiếu vắng một đứa học trò trong sân chơi và bàn ghế cũng nghe lạnh một chỗ
ngồi.
Tôi đi ra biển, qua những cây bàng già vừa nhuộm màu đỏ
trên lá. Con đường dẫn ra Bãi Trước bình thản những dấu giầy. Chiếc quán cà phê
của một thời phiêu bồng tập làm người lớn vẫn tấp nập như mọi ngày. Quán có tên
Năm Tròn- một cái tên mà ngày đó tôi không thấy được sự tròn trịa trong đó- mãi
đến sau này khi đi phép về tôi mới cảm nhận được. Khi người ta chưa mất mát,
người ta không bao giờ nhớ đến cái hạnh phúc tròn trịa trong bàn
tay.
Từ trên lề đường, muốn xuống quán phải trèo xuống những tam
cấp có từ thời người Pháp còn làm việc. Thời gian làm xấu xí mặt đá tráng xi
măng và đôi chỗ hiện ra màu nâu của cốt thép. Gió biển cũng góp phần bào mòn lối
đi và tình yêu cũng nghe mòn mõi không kém. Phía trên lề đường, nơi tọa lạc của
nhà Bưu Ðiện, một nơi chốn quen thuộc của mọi cư dân trong vùng. Những đứa học
trò như chúng tôi sẽ không bao giờ quên được ngôi nhà có nhiều tầng lầu kiên cố
và gian phòng rộng trong khi nền nhà ngày đó được lát bằng gạch tàu. Sau này
được thay thế bằng gạch men. Chính giữa là phòng làm việc. Những nhân viên suốt
ngày bận bịu với những chồng thư, những bưu kiện được gói ghém và đóng mộc bên
ngoài. Tôi quen thuộc từng người nơi đó. Một vài người là phụ huynh của bạn học
của tôi. Một người có tên là Mai- mà chúng tôi thường gọi là chú Ba Mai. Chú bị
hư một con mắt và có gương mặt hiền hậu, dễ mến. Tôi có với chú rất nhiều kỹ
niệm, khi tôi vừa đi học vừa viết bài gởi đăng báo Sàigòn. Những bút hiệu tôi
dùng thời đó không dinh dấp đến tên thật của tôi cho nên Chú Ba Mai là người
giúp cho những lá thư của tòa soạn gởi đến địa chĩ nhà tôi không bị thất lạc.
Trong đó cũng kèm theo nhiều lá thư tìm bạn bốn phương. Trong suốt mùa nghĩ hè,
nhiều buổi trưa gần giờ cơm, tôi thấy chú tất tả đạp xe hướng về nhà tôi dưới
chân núi Lớn là tôi biết tôi có thư. Những niềm vui lớn nhỏ tùy theo những địa
chĩ mà tôi mong đợi trên bì thơ. Tôi lên tiếng cám ơn chú và đón bắt được cái
hạnh phúc đơn điệu đến từ bàn tay chú, qua những bì thơ còn thơm mùi mực ghi dấu
ngày nhận. Ánh mắt chú tỏa sáng niềm vui như thể niềm vui đó không phải chú ban
phát cho tôi mà là chú nhận lảnh.
Sau này, khi tôi vào lính, chú vẫn còn làm việc nơi đó,
nhưng già nua hơn. Những người khác cũng vậy. Những cây bàng già trước sân cũng
theo thời gian già nua như họ. Mọi người vượt qua biển dâu. Nhưng sẽ có những
thứ tình cảm luôn tồn tại và sừng sững không thể vượt qua được. Một trong những
tình cảm đó, là mối tình đơn phương của tôi và Trương Thu Thủy, mà tôi sẽ nói
sau đây...
2.
Mười bảy tuổi tôi học lớp đệ tam. Mỗi ngày đến trường từ
nhà tôi đi qua khu phố Chợ Vũng Tàu. Qua hai đường Trưng Trắc, Trưng Nhị. Nhưng
từ trường trở về tôi thường la cà theo những con đường khác, tùy hứng. Nhiều
buổi học tan sớm vì không có lớp hoặc không có thầy giảng. Khi thì ghé qua một
tiệm sinh tố có một bàn billard nơi góc đường Lý Thường Kiệt, Ðồ Chiểu. (Tiệm có
tên là Kim Kỳ). Khi thì ghé vòng qua bên kia đường Trần Hưng Ðạo, ngang sạp báo
Sông Lô để đọc báo cọp. Nhà nghèo, ngoài số tiền khiêm tốn mà mẹ tôi cho tôi mỗi
ngày, tôi không thể có dư tiến để mua thêm sách báo đọc thêm, nên chỉ còn một
phương cách là ghé sạp báo để xem chùa. Lúc đầu chủ sạp còn cự nự, sau thấy tội
nghiệp nên bỏ qua.
Vài lần tôi nấn ná tại sân trường cùng với bạn bè chơi thể
thao. Môn thể thao mà tôi ưa thích ngày đó là bóng bàn và bóng chuyền. Tuổi thơ
tôi mượt mà nhưng cũng trong veo như một vệt nắng rơi nhanh trên một góc hành
lang. Khi mà tình yêu chưa thể định nghĩa thành lời. Trong lúc chúng tôi chia
phe đánh Volley thì các nữ sinh cùng lớp lượn lờ bên cạnh các gánh hàng rong nơi
hàng rào. Có những món ăn thức uống phổ thông và tên tuổi của người bán hàng lẫm
liệt đi vào “lịch sữ ăn quà vặt” của các nữ sinh ngày đó. Và cũng có biết bao
tình cảm nẩy sinh từ bên những gánh hàng rong. Chúng tôi gán ghép tình yêu cho
nhau, không cần biết trái tim của đối tượng mà chúng tôi gán ghép có bao nhiêu
phần trăm mở ngỏ để bù đáp lại. Ðôi khi những lời gán ghép có phản ứng ngược và
sau đó chủ nhân của nó nhận lãnh những cái liếc xéo bằng mắt mà đuôi của nó dài
hơn con đường ra biển. Ðôi khi những lời đùa chơi lại hóa thành sự thật. Và
những mối tình học trò có điều kiện để nở hoa. Nhưng dù thế nào, những chiếc áo
dài trắng vẫn nhởn nhơ rong chơi, như những con sơn dương hiền lành trước mắt
bầy sư tử lãng mạn. Trong khi những gánh quà rong cũng vơi dần theo nhịp thời
gian bên những cô gái vừa bớt đi tâm hồn ăn uống.
Có nhiều lúc tôi không được tham dự vào cuộc chơi cùng với
những đứa bạn khác, vì tụi nó có khả năng hơn. Tôi cùng vài đứa khác (ốm o và
nhỏ con giống nhau) ngồi trên hàng rào xi măng luyến tiếc nhìn xuống, mường
tượng đến những kết quả chung cuộc.
Những sách vở bị bỏ bê lăn lóc dưới chân cột lưới. Một vài
quyển bị sổ tung. Trang giấy trắng thơ mộng phơi ra như lòng chúng tôi ngày đó,
chưa biết chia ô, chưa biết kẻ hàng. Và những ngày như vậy thường có gió thổi
miên man, kéo theo những chùm phượng đỏ rơi xuống sân trường, như những vệt máu.
Trương Thu Thủy là một cô gái bằng tuổi với tôi, hay nhỏ
hơn một chút. Tôi không có cơ hội để biết nàng có nặng lòng với một ai trong đám
con trai chúng tôi hay không, vì Thủy chỉ học ở trường Trung Học Vũng Tàu có vài
năm rồi đổi về Sàigòn (?). Nhưng tôi biết lòng tôi không còn bình yên khi chạm
đến đôi mắt nàng.
Có thể rồi tất cả đều không còn cảm thấy bình yên- những
đứa con trai lớn xác nhưng tâm hồn quá thơ dại- Có những dung nhan đi qua đời
một người, không hằn lại một dấu tích. Có những dung nhan dừng lại và thẩm thấu
như một vết mực vô tình rụng xuống trên trang vở đầu đời. Người con gái luôn là
một dòng sông để cho đứa con trai cảm thấy mù lòa đứng ngẩn ngơ không tìm thấy
con đường nào ra biển.
Tôi không nhớ tôi cảm giác được sự dịu dàng từ đôi mắt của
nàng từ bao giờ- trong lớp học hay giờ ra chơi- Nhưng tôi biết tôi không thể yên
ổn khi tiếng kẻng báo hiệu giờ ra về. Ðôi mắt Thủy sâu và tròn vo như hai hột
nhản khi nhìn ra chỗ chúng tôi đang chơi. Qua vai nàng, thời gian như ngắn ngủi,
đọng lại và cái không gian chật hẹp kia bỗng trở thành nỗi nhớ thênh thang. Mười
bảy tuổi tôi không thể tự mang trên vai mình gánh nặng của tình yêu để đêm về
tương tư như lời nhạc của Trúc Phương:
“sau lưng vết tích chưa
lành,
tình yêu trước mặt nên đành làm
ngơ,
ôm lại nhỡ, buông xuôi đành
nhỡ,
vì nhỡ nên thừa...”
Mười bảy tuổi, nàng đang đứng đó và gởi đều cho những đứa
con trai nỗi nhức nhối. Ðôi má lúm đồng tiền và bờ môi cong vút màu phượng cháy
đang phụng phịu. Ly đậu đỏ bánh lọt sẽ đi vào môi miệng nàng dễ dàng, nhưng còn
tình yêu sẽ khó khăn để đi vào trái tim mà không vấp phải sự kháng
cự...
3.
Năm 1990, có lần tôi lưu lạc ở Sàigòn. Tôi vừa lập gia đình
và cuộc hôn nhân không vui như tôi nghĩ. Mấy năm chăn gối với người bạn đường,
tôi và nàng quả thật có đứng cùng một bến sông mà mắt nhìn về hai hướng mộng.
Chúng tôi có một đứa con gái. Nhiều lần cay đắng, tôi có ý định chia tay. Nhưng
không lần nào có kết quả. Ðứa con, dù không phải là cánh tay nối dài những mơ
ước của người cha hay người mẹ- nhưng dù sao nó cũng là gạch nối, hay ít ra cũng
là một chất keo hàn gắn những tan vỡ.
Một buổi sáng tôi xa Vũng Tàu, ngồi ở bên hông Nhà Hát Lớn
Sài Gòn, vừa uống cà phê vừa nhìn ra con đường Nguyễn Huệ trước mặt. Những dòng
người hối hà xuôi ngược như thể muốn chạy tìm cho mình một nơi chốn hạnh phúc
phồn hoa. Có một chút mưa bay vội vàng trên mái dù nhiều màu. Từ quán cà phê lộ
thiên, tôi nhớ Vũng Tàu. Nhớ về một vùng biển thời thơ ấu. Nhớ cả con gái tôi
vừa lên ba tuổi. Gần đến ngày sinh nhật của nó và tôi ao ước được mua cho nó một
món đồ chơi. Nỗi buồn đọng xuống thành ly để trở thành nỗi khát khao ũ rũ. Tôi
mượn giấy viết của người chủ quán viết xuống những câu thơ, mà lúc đó tôi nghĩ
nếu không viết ra tôi sẽ không thể nào chịu nổi. Bài thơ có tựa là Mùa Mạc Lan
Cuối Cùng:
chiều đi qua những phố đông
người
bỗng thấy lòng rã rượi
thoáng bồi hồi nhớ nụ hôn
xưa
như đóa hoa xanh xao vắng
mặt
ngày sinh nhật con
cột điện nghiêng giữa bờ tường loang lổ mảng
vôi
chuyến buýt trôi qua
người khách cuối
em mất tăm giữa lòng xe
cộ
chiều tháng tám mưa bay
Váng vất ly cà phê buổi sáng mái
hiên
bên hông Nhà Hát Lớn
Mùi phong lan đài các
điệu bass trầm cuối một hành
lang
giữa nhịp tim con hoan
lạc
gã hành khất mù tóc rối phong
sương
lòng nón cong queo tờ bạc
nhỏ
sờ soạng bàn tay run
niềm hạnh phúc khô trong
áo
đêm trở về có những vì
sao
dòng sông đen phiền
muộn
tiếng hát đuổi theo tuổi hai
mươi
cùng những ngày bão rớt
bên kia cầu tuổi thơ
em khóc chia tay thời con
gái
không hề quay lại
(năm một ngàn chín trăm bảy mươi
ba)
Và mưa bỗng trở nên dữ
dội
ta vuốt mặt giữa Sàigòn hấp
hối.
Minh Nguyệt ơi và Trương Thu Thủy em
ơi...
.....................
(trích một đoạn)
Bài thơ có 47 câu thơ, nhưng tự dưng có một câu nhắc đến
tên Trương Thu Thủy, không hiểu tại sao.
Thời gian qua lâu lắm rồi, đủ để tôi lạnh lòng. Vả chăng
ngày xưa nàng có biết tôi yêu nàng ra sao? Những tình yêu như mưa bóng mây bay
qua vai đời một người con gái giống như tiếng chim kêu buồn trong lòng một gã
con trai thất bại. Rốt cuộc sẽ không làm trưởng thành một giấc mơ để khi giật
mình tỉnh thức phải bẻ bàng.
Khi ra hải ngoại- năm 1991- tôi gởi bài thơ cho nhà văn Mai
Thảo, coi như món quà tái ngộ sau nhiều chục năm, kể từ ngày ông đăng bài thơ
đầu tiên của tôi trên giai phẩm Văn (1973). Sau nầy tình cờ tôi biết được chị
Bích Huyền cũng đọc bài thơ đó trên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) phát thanh tại
quận Cam, nhân ngày Lễ Cha. Tôi không biết bài thơ của tôi đi qua những không
gian, những góc phố đang quấn quít hương nồng. Tôi cũng không hình dung ra những
tình cảm của người đàn ông lở thời và nát ngứu tương lai ngày nào của Việt Nam
đã đậu xuống bao lâu trên tấm lòng của những ngưới cha hải ngoại? Vì địa phương tôi không có đài phát htanh để
tiếp nhận sóng.
Bốn mươi bốn năm trôi qua, kể từ thời gian tôi bắt gặp đôi
mắt màu hột nhản nhìn xuống sân chơi và vành môi phụng phịu gió mùa. Bốn mươi
bốn năm có còn đủ để lòng tôi nhớ lại một màu son và đôi lúm đồng tiền? Những
màu sắc và hình ảnh đó có còn tươi mát hay đã cạn khô theo dòng đời? Tôi nghĩ
đến những chiếc lá úa màu thời gian trên các cây bàng nơi đường ra biển. Tôi
nghĩ một lúc nào đó rồi nàng cũng khác xưa và tôi cũng vậy.
Có khi nào tôi và Thủy sẽ gặp nhau trên một chặng đường nào
đó trên nước Mỹ, nhưng sẽ không nhìn ra nhau. Cả hai đều lơ đảng vượt qua với
tấm lòng đã mất dấu về nhau? Biết đâu? Vì thời gian không thiên vị một ai. Nếu
như vậy thì buồn bã biết bao...
4.
Nhưng
định mệnh vẫn có những phân chia trên một chặng đường bằng những cột mốc. Có
những cột mốc đánh dấu một ngả rẽ, một chỗ dừng. Có những cột mốc đánh dấu đường
hai chiều và đường không có “exit”. Có những cột mốc đánh dấu niềm vui hay lồng
trong đó một tiếng thở dài. Tôi già nua để không chờ đợi định mệnh đưa tôi trở
ngược về thời gian bốn mươi bốn năm trước như trong phim giả tưởng.
Buổi tối
ngồi trước bàn phím cùng với những lơ đảng như mọi khi, tôi bắt gặp một mẫu tin
trên e mail. Kèm theo e mail là một bức ảnh. Dưới đó có lời thông báo của Ba
Thới, tức Trương Vĩnh Thới, người bạn học ngày xưa. Anh bạn này đang kêu gào
khan cổ về một “vòng tay mở rộng” để đón một cánh buồm mãi rong chơi, vừa quay
về với biển.
Cánh buồm
đó là Trương Thu Thủy. Nàng vừa quay về thăm lại biển xưa với lòng mở căng gió
mát trùng dương cùng người tài công- cũng vừa là người bạn đời. Cả hai đang nhìn
ra nắng gió vùng San José- nhìn ra ống kính như nhìn ra cuộc đời thơm
ngát.
Tháng tám đang chớm mùa thu. Tôi không biết có phải gió thu
làm gợn những hơi bụi bay lên từ những vạt rừng vừa bị cháy ở Cali, hay tại hạnh
phúc đã thẩm thấu no đầy thử thách thời gian? Nên màu mắt của nàng sậm màu hơn
và long lanh hơn ngày trước...?
Tháng 8, năm 2007
No comments:
Post a Comment