phạm ngũ yên
gởi Ngọc lksg, thay cho lời cảm ơn.
Có nhiều thành phố rất ít khi có mùa đông. Trong đó có
thành phố biển Vũng Tàu của chúng ta. Người ta sẽ không tìm thấy mùa đông lạnh
lẽo giống như một nơi nào đó trong phim ảnh, có tuyết rơi trắng xóa vùi lấp
những bờ đường. Người ta cũng sẽ không tìm thấy dưới mái che của các quán ăn,
những tấm vải bạt phồng căng rét mướt. Đôi khi, mưa phùn và gió bấc có tạt qua,
nhưng biển vẫn hiền hòa như một người con gái chưa quen tình
đầu.
Ðêm Vũng Tàu hiếm hoi những vì sao vì nhà cửa mọc thêm mỗi
ngày, che lấp những mái hiên lâu đời cùng những tiếng chim ngày cũ. Những vì sao
nếu có, cũng rưng rưng không nói thành lời. Như đóm lửa vừa cháy hết đam mê để
lụn tàn khao khát.
Khi anh vào đời hoa sứ nồng nàn vẫn đậu xuống phố đêm đêm
và gió cứ miên man bên hông nhà bưu điện. Một nhà thờ nhỏ có tên là Đa Minh nhìn
ra vùng biển trước mặt. Quán cà phê Năm Tròn nằm im lặng như tuổi thơ của anh.
Câu chuyện nào dang dở từ mối tình đầu không tròn trịa như một vầng trăng đang
khóc. Trên trang giấy rơi ra từ một tập vở cũ, những vết mực lem luốt một tuổi
thơ khờ khạo, chỉ biết cho đi mà không biết lấy về. Mười tám tuổi anh biết tương
tư một tà áo trắng trong sân trường và từ đó học hành không ra gì. Mười chín
tuổi hồi hộp đi qua phòng thi. Những định lý, những phương trình, những tế bào,
những diệp lục tố trả hết cho thầy Nguyễn Tuấn Văn. Thầy Phạm Đình Vình. Thầy
Bùi Bằng Hãn...
Ngày tuyên bố kết quả dò không thấy tên mình, anh lặng mình
trong nỗi cô đơn và nguyền rũa số phận. Những cơn gió bay qua đời từ thuở ấy,
không biết có buồn không, sao vẫn cất vang lời chiêu mộ. Những nhánh bàng xôn
xao như chưa từng biết bão giông ngày nào.
Phía bên kia, là con phố ghi đậm tuổi thơ em. Dù không phải
là con phố em sinh ra, nhưng hình như em biết về nó rõ ràng hơn anh biết.
Con đường Phan Bội Châu cắt ngang đường Phan Chu Trinh, một
hướng dẫn về Xóm Lưới, còn hướng kia dẫn về nhà thờ Đa Minh. Nhà của em lọt sâu
trong một vườn cây um tùm nối liền với khuôn viên nhà thờ. Em nói với anh về
những ngọn đèn ướt át sương muộn. Về những vạt đường mở lòng nghe tiếng chân em
đi ăn quà vặt trở về. Tiệm bánh bèo Tuyết Mai cùng những góc xoài ủ đầy bóng
đêm, chiếc bàn khuất lánh mà em thường ngồi để tránh người ta “dòm ngó”. Dẫu
sao, một đứa con gái ăn hàng một mình, dù gợi cảm ngọt ngào cách mấy vẫn gợi
trong lòng người qua đường một nỗi xốn xang. Nhưng em vẫn là em. Dưới mảnh trăng
non chưa kịp chờ gọt vỏ, anh mường tượng một nốt ruồi bên khóe môi cong. Như vết
bụi trầm luân bay qua những tâm hồn chai sạn. Anh cũng mường tượng từng ngọn gió
đêm hối hả ùa lên mái tóc xuân thề và bờ vai mười sáu. Để từ đó làm thành biển
đời bao la.
Em nói với anh bằng giọng nói miền nam, nhưng anh quê mùa
không nghe thấy. Điều này làm anh xấu hổ. Lòng em ngày đó kín bưng như khu vườn
chưa bỏ ngỏ. Những nhánh lá hãy còn xanh mỗi
ngày.
Trên đường dây viễn liên, giọng em lúc thầm thì lúc sôi
nỗi. như tiếng sông vừa tìm thấy biển. Dù năm tháng có vần xoay, dù mùa xuân có
trở mình hay dù mùa hạ có làm cháy những cành phượng bên đường em vẫn ôm trong
lòng màu trẻ trung của
biển.
Em cũng nói về hoa sứ bằng giọng nồng nàn: “Không ai có thể
quên được những cây sứ nơi quê mình. Những cây sứ đường về nhà em, anh ơi”...
Cái màu hoa tiển chiều đi xuống phố và làm chết ngất một tuổi
thơ.
Đôi lần bày đặt chơi trò mua bán, em gánh mùa trên vai.
Những hoa sứ được em gom đầy túi áo, đợi ngày làm người lớn sang sông. Nhưng
tháng ba rụng hối hả những ước mơ. Trò chơi nào dang dở giờ xin trả lại cho bàn
ghế, cho bảng đen phấn trắng. Những lần bị phạt cấm túc, cả lớp bị quỳ gối giữa
sân cờ. Vạt nắng lang thang nghe ngóng ngày chưa qua hết. Bờ môi thơm mùi mật.
Vai áo thơm mùi bồ kết gội đầu. Đám bạn bè sót lại một thời nông nổi, mai nầy ai
lấy chồng xa?
Khi em hiểu về cuộc đời, tình yêu vẫn còn xanh và chưa lo
sợ. Ngày ấy tình yêu còn rất trẻ. Em đi qua những cửa biển xưa như một mảnh buồm
nâu đi qua những sông đời lãng mạn.
Sau khi đậu Tú Tài em rời trường Vũng Tàu, để về Sài Gòn
hoc luật. Ngôi trường em học nằm trên đường Duy Tân luôn rộn rã những ngày nắng
sớm. Câu hát không thơm hết đường về nhưng làm vướng vít bánh
xe:
Người từ trăm năm về qua trường Luật
người từ trăm năm về qua trường Luật
ta hỏng Tú Tài ta hụt tình yêu
thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi
đau lòng ta muốn khóc
người từ trăm năm về qua trường Luật
ta hỏng Tú Tài ta hụt tình yêu
thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi
đau lòng ta muốn khóc
Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên nói hộ dùm anh tâm sự của những gã
con trai thi rớt. Họ bồng bế nỗi buồn đi trên những đông tàn, những thu phai. Và
tiếng chim hót trong tim, như tiếng buồn của quá
khứ.
Em hỏi anh có bao giờ đi qua trường Luật? Anh trả lời chưa
bao giờ. Vì ngày đó anh làm sao có trình độ để tán tỉnh những cô nữ sinh kiêu
hảnh của Sài Gòn Văn Khoa? Của Sài Gòn Luật Khoa? Và cũng không hề có luôn Gia
Long, Trưng Vương với môi hồng má thắm. Những cô gái đẹp muôn đời đều giống nhau
thường chỉ biết nhìn lên, ít khi nào ngó
xuống.
Em cũng đừng hỏi vì sao chưa bao giờ anh đi qua Dược Khoa
và Nông Lâm Súc, nằm ngay góc Cường Đễ- Thống
Nhất.
Anh không biết làm sao cho em hiểu. Những ngày lính tráng ở
cao nguyên, đôi lúc có về thăm Sài Gòn, anh chỉ quanh quẩn một vài chỗ có vài
người bạn thời còn đi học trú ngụ. Một nơi đường Nguyễn Thiện Thuật, Bàn Cờ. Một
nơi khác đường Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn. Thời đó, tim anh chưa sàng sẫy bởi nắng
mưa rời rộng. Chưa với tay đụng bóng tối hoàng hôn hay chân trời phía trước.
Chưa biết thế nào là gừng cay, thế nào là muối mặn. Nên những đoạn đường mà em
nói, anh chưa mường tượng ra.
Anh chưa một lần đi ngang qua trường cũ của em. Nơi mênh
mông dòng đời, dòng người. Những phù hoa mới mẻ đó cuốn em trôi theo những hạnh
phúc lạ. Còn trơ những hàng cây phong trần hai bên đường và bóng những gã tình
si nằm lại.
Anh chưa một lần đi ngang qua trường cũ của em. Điều này
phơi bày cho em thấy anh quê mùa. Gần mười năm lính tráng, nếu cộng tất cả thời
gian những lần về phép Sài Gòn và Vũng Tàu, thì chưa đầy 6 tháng. Còn lại là mưa
phùn và bụi đỏ.
Đêm cao nguyên đầm đìa hương thơm của loài cúc núi. Những
vì sao rưng rưng. Từng quán xá trôi lùi sau những vòng bánh xe GMC. Phi trường
Phụng Dực của Ban Mê Thuộc từng là nơi ngả lưng của anh sau những lần chờ đợi
chuyến bay. Những thùng phuy che chắn phòng hành quân dã chiến cùng những bao
cát gọn ghẽ trên giao thông hào. Pleiku cũng không kém rực rỡ. Khu chợ trời Diệp
Kính bán đủ thứ đồ thượng vàng hạ cám. Những người lính xa nhà có thể tìm thấy
nơi đây một chút dịu dàng hay bối rối trên những hòn cuội dẫn vào cà phê Dinh
Điền. Những ly cà phê càng uống càng làm thêm mất ngủ. Vì hồn lỡ sa vào đôi mắt
cô chủ quán.
Chính nơi đây, anh đã gặp lại Lý Ngươn Hồng, một bạn học
Trung Học cũ. Lý Ngươn Hồng con nhà công chức, cũng đẹp trai nhưng học không
giỏi. Hắn cũng rớt Tú Tài như anh và đi Trung Sĩ Quân Cảnh. Ra trường làm việc
tại Quân Đoàn 2. Hồi còn ở Vũng Tàu, hắn là một trong những nam sinh đào hoa và
đàn hay hát giỏi. Giọng hát mượt mà và hơi làm dáng chút đỉnh. Những dịp tất
niên- cây mùa xuân của trường, giọng hát của Lý Ngươn Hồng từng làm thổn thức
mấy cô nử sinh đương thời.
Một buổi chiều cuối tuần của tháng ba, anh đang lang thang
trên đoạn đường dẫn vào Diệp Kính, thì một xe Jepp Quân Cảnh vượt qua và thắng
lại gấp gáp. Lý Ngươn Hồng trên xe nhảy xuống đến trước mặt anh làm bộ hỏi giấy
ra trại. Buổi chiều cao nguyên lạnh như chưa từng vậy mà câu nói của Hồng làm
anh đổ mồ hôi. Thầm chắc đêm nay ngủ dật dờ nơi một phòng giam nào đó trong trại
Quân Cảnh. Thấy anh lúng túng. Lý Ngươn Hồng cười ha hả và anh hoàn hồn trở lại.
Đúng là “tha hương ngộ cố tri”. Sau đó Hồng lôi anh lên xe Jepp ngồi cùng một
vài người bạn của hắn chạy vòng phố Pleiku.
“em Pleiku má đỏ môi hồng/ ở đây buổi chiều quanh năm mùa
đông”... (thơ Vũ Hữu Định). Đợi hết giờ công tác của hắn và sau đó là quán xá,
bia bọt...
Có từng cơn mưa khát trong nhau từ thuở nào. Viên sõi rơi
vào lòng giếng cạn. Em nhắc anh chuyện đời
xưa.
Tháng ba rét nàng Bân và hương cốm bay thơm những góc đường
Hà Nội. Em chỉ là cô gái miền nam, nhưng sống chung với những người miền bắc. Đó
là khu nhà thờ Ba Chuông. Còn nơi đây, trong căn nhà đường Heatherglen tại hải
ngoại, có người đàn ông già đếm thời gian, dấu nỗi đau trong lòng. Hạt mưa trái
mùa rơi thầm trên mái hiên có sương mù quấn quít. Những tờ lịch bay theo nỗi
mong chờ hư hao.
Em sôi nổi nói về thành phố Sydney của em. Chưa một lần anh
sang bên đó. Nhưng anh đã nghe dường như nắng ấm xua đi rét mướt nơi này. Hãy
nói cho anh nghe phải mất bao nhiêu lâu để nghe được lời chia tay. Cũng hãy nói
cho anh nghe có bao nhiêu lứa đôi đến được bến bờ hạnh
phúc?
Hơi thở của em bên đường dây viễn liên, tựa như hơi thở của
mùa màng rung qua tuổi thơ của chúng ta. Những vệt rối mơ hồ trong bàn tay nối
quá khứ chúng ta gần nhau. Điều này làm anh vừa đau lòng, vừa thân thiết.
Nơi em đang sống và làm việc, có những vòm mái màu trắng úp
chồng với nhau, giống hình con sò. (Sydney Opera House). Buổi trưa gi lunch em
đi xe đến đó để ăn cơm. Từ những thời gian như vậy, em gọi phone cho anh. Khoảng
cách tính bằng thời gian giữa chúng ta là 17 tiếng. Lúc em gọi là 2 giờ trưa
Sydney, bên anh là 10 giờ tối. Em dạy anh cách tính lùi thời gian để không trở
ngại giờ giấc. Em không biết là anh dở toán đến độ trên những trang ngày trang
đêm, anh đã để mất trắng tình yêu của mình mà không tìm ra đáp số.
Có những hạnh phúc không thể nói bằng lời. Nhưng anh vẫn
thấy hạnh phúc khi nghe em nhắc lại chuyện vui buồn ngày xưa. Vũng Tàu xa bao
ngày và lũ lượt mọi người qua bao bể dâu. Qua những nắng nôi làm tóc cháy nhưng
môi thắm vẫn còn.
Em thân yêu,
Ba mươi bảy năm qua vèo như giấc mộng. Nhưng giấc mộng đó
không êm đềm. Như một nhánh sông lặng chảy vào lòng đất, anh từng có một thời
yêu không dám nói ra. Bây giờ, qua hết một vòng tử sinh sáu mươi năm cuộc đời,
anh mới nhận ra người anh yêu vẫn là kẻ lạ. Người con gái ấy vẫn giữa mọi người
và đi giữa phù hoa đô hội. Trong khi tiếng cười chỉ một lần ngắn ngủi mà làm
thành nỗi nhớ dài gần bốn mươi năm.
Những buổi sáng mùa đông đẹp như trong phim ảnh. Anh ngồi
trong quán cà phê nhìn ra. Tuyết đang phơi phới trên đường. Rất ít xe cộ chạy
qua vì người ta sợ tai nạn hay sợ xe bị chết máy. Người đàn bà ngoại quốc có mái
tóc bồng sũng ướt vì vừa ở ngoài đường bước vào. Đôi mắt xanh man dại đang quanh
quất tìm một chỗ ngồi. Cuối cùng nàng ngồi trước mặt anh. Qua vai nàng, cây dầu
cô độc nơi góc phố bên kia đang trắng xóa như được quấn bằng bông gòn.
Tin tức dự báo thời tiết cho hay những thành phố vùng đông
bắc Hoa Kỳ đang chìm ngập trong mưa tuyết và có nơi lên đến 3 feet. Trường học
và công sở đóng cửa nhiều ngày và hàng triệu người sống trong hoàn cảnh không có
điện nước. Bây giờ đến lượt những thành phố phía nam. Miền bắc của tiểu bang
Texas là Dallas đang bị phủ tuyết ngày hôm qua. Lợi dụng thời gian tuyết chưa có
nhiều tại Austin, anh liều mình lái xe ra ngồi ở Starbuck’s.
Những buổi sáng đẹp như vậy, không được nghe một khúc hát
hay một lời ca. Những buổi sáng đẹp như hôm nay, sẽ buồn vô cùng nếu không có ai
ngồi bên cạnh. Không có ai để cùng nắm tay bước chậm trên đường.
Người từ trăm năm về như dao nhọn
người từ trăm năm về như dao nhọn
dao vết ngọt đâm ta chết trầm ngâm
dòng máu chưa kịp tràn dòng máu chưa kịp tràn
Có những lòng thuyền không bao giờ về đến bến. Cây bàng già năm xưa đâu rồi? Khi anh rời Vũng Tàu nó chỉ còn một chiếc lá. Gió đời và bão giông rồi sẽ mang nó xuống. Quán cà phê Năm Tròn để rơi những giọt cà phê đen như màu mắt. Cũng như Vũng Tàu để rơi một người con gái. Ai đem nỗi buồn thả xuống đáy ly?
người từ trăm năm về như dao nhọn
dao vết ngọt đâm ta chết trầm ngâm
dòng máu chưa kịp tràn dòng máu chưa kịp tràn
Có những lòng thuyền không bao giờ về đến bến. Cây bàng già năm xưa đâu rồi? Khi anh rời Vũng Tàu nó chỉ còn một chiếc lá. Gió đời và bão giông rồi sẽ mang nó xuống. Quán cà phê Năm Tròn để rơi những giọt cà phê đen như màu mắt. Cũng như Vũng Tàu để rơi một người con gái. Ai đem nỗi buồn thả xuống đáy ly?
Những trang vở đời lật qua, nhưng suy tư còn nằm lại. Khi
anh còn trong lính, đôi lần về thăm nhà. Mùa xuân đang hiện mình trên phố chợ.
Hai con đường Trưng Trắc- Trưng Nhị ồn ào người mua bán. Những quả dưa hấu chất
đống thành hàng làm xanh những vĩa hè. Những nhành mai rung rẩy trong nắng như
những lời tỏ tình e ấp. Đôi khi mùa xuân là nỗi buồn trên mắt của mẹ anh, khi
năm đó anh không về. Sáng mồng một Tết cả nhà tụ tập, bằng bặt đứa con miền
xa.
Đêm đêm ngồi trước bàn viết, chiếc laptop rã rời từng phím
chữ. Anh chờ nghe tiếng phone của em. Những bông tuyêt ngoài kia không biết mòn
mõi hay sao mà vẫn bay hoài, làm đau cả mộng. Người ta nói có hàng trăm triệu
bông tuyết, mỗi bông là một thế giới không có cái nào giống cái nào. Chúng vẫn
vô tư không biết cuộc đời ngắn ngủi. Còn những con dốc phía bên này năm tháng,
có nghe lạnh buốt một lời chim?
Một lần như vậy, anh tình cờ thấy từ Yahoo những tấm ảnh.
Có một tấm làm anh ngẫn ngơ. Hình ảnh một con chó nhỏ đứng chờ chủ nó trên đường
phố mùa đông. Hàng chữ “I waited for you” nói lên sự cô đơn tuyệt vọng, nếu quả
thật trong cái đầu nhỏ xíu của nó tồn tại điều đó. Khi save vào trong my
document, anh đổi tên là “bền lòng”. Anh không biết nó bị lạc mất chủ của nó bao
nhiêu lâu, nhưng hình ảnh cho chúng ta thấy dường như thời gian nó ngồi chờ là
rất lâu. Tuyết xuống mênh mông trên đường chiều mịt mùng làm phủ ngập một phần
đuôi của nó. Người chụp ảnh có thể là một người qua đường tình cờ, rồi vội đi,
vì không ai có thời gian để ngồi canh đợi kết quả. Không biết chủ nhân của con
vật tội nghiệp có quày xe trở lại tìm kiếm hay cuối cùng nó sẽ chết vì lạnh, hay
vì một vòng bánh xe lơ đảng của ai đó. Sự bền lòng của nó, hình như đã làm anh
mât ngủ nhiều đêm.
Nếu kết thúc có hậu đến cho con chó, có nghĩa là nó sẽ tìm
găp lại chủ nhân giống như một đoạn kết trùng phùng trong một tuồng cải lương
ngày xưa, thì anh sẽ an tâm coi như mình là một khán giả đứng lên rời bỏ rạp hát
ra về. Những ngày mai có việc của ngày mai. Nhưng nếu không phải như vậy, thì
cuộc đời buồn thảm biết bao. Và những tiếng chim bay ngang qua khu vườn cũ, sẽ
làm nặng trên vai những u sầu.
Năm vừa rồi, con gái của anh đem về một con chó con mới vừa
rời vú mẹ. Con chó nằm ngủ cuộn tròn trong lòng nó như một cuộn bông gòn màu cà
phê sửa. Khi thức giấc, con chó chạy loanh quanh trong phòng, nhiều khi vấp
ngạch cửa té lăn cù. Mới đầu anh rầy con gái vì đem sự phiền phức về nhà. Nó
khẩn khoản xin anh cho phép nó nuôi và nó sẽ làm tròn bổn phận đối với con vật.
Gương mặt đau khổ của nó cuối cùng làm anh xiêu lòng.
Thời gian trôi qua, lòng háo hức vì yêu thương loài vật đã
bị suy giảm trong lòng nó, trong khi điều đó lại tăng trưởng trong lòng anh. Con
chó lớn theo ngày tháng và tháng giêng vừa rồi nó được 1 tuổi. Vai trò săn sóc
con vật lần hồi bị hoán đổi không biết từ bao giờ. Nhiều khi ham chơi, con gái
anh đi suốt ngày, anh phải coi chừng và lo cho con chó ăn uống, làm việc vệ
sinh. Không đi làm thì thôi, nếu anh ở nhà nó lẩn quẩn bên cạnh. Mỗi ngày tan sở
làm về nhà khoảng 4 giờ anh thấy nó nằm bên cửa, dưới tấm mành che nắng bằng
mica, nhìn ra, chờ đợi tiếng xe. Nhiều buổi sáng, tiếng chuông đồng hồ báo thức
6 giờ, anh vẫn còn nằm nán bên giường. Con chó đến cạ đầu trên tay anh để kêu
dậy. Sự quyến luyến của con vật đôi lúc làm con gái anh ghen tị. Nó nói: ”Con
Roxie nó phản. Con đi làm về nó không mừng mà nó lại mừng ba”. “Đáng đời”. Anh
nói. Tại làm sao mà trở nên như vậy, con phải tự biết.
Lúc anh ngồi làm việc trong phòng riêng, ánh đèn ngủ dội ra
chỉ đủ soi sáng màn ảnh computer, con gái anh bày đặt nói với con chó: “Roxie,
ông ngoại đâu rồi? Con tìm ông ngoại đi”... Và con chó chạy đi kiếm anh thật.
Buổi sáng nay, ngồi bên ly cà phê đầu ngày, anh lại liên
tưởng đến một điều khác. Một câu chuyện khác. Anh sẽ nói cho em nghe. Đó là
chuyện từ con chó bị chết. Có một người đàn ông đã kiện người hàng xóm làm chết
con chó của ông. Luật sư George Graham Vest khi
ra tòa đọc bài diễn văn bào chữa cho con chó, có những đoạn như thế
này:
“Thưa quý ngài hội
thẩm,
Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này
có thể một ngày nào đó hóa ra kẻ thù quay ra chống lại ta. Con cái mà ta nuôi
dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi ra có thể là một lũ vô ơn.
Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi
gắm hạnh phúc và danh dự, có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và
sự trung thành.
Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi
đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan
trong phút chốc bởi một hành động dại một giờ.
Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là
những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận.
Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có
được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ rơi ta, không bao giờ
tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta.
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như
lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù
gió đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết vấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là
được! Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết
thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi va chạm với cuộc đời tàn
bạo này. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng, dù ta có làm một
gã ăn mày. Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân tàn danh liệt, thì vẫn còn, con
chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời. Nếu
chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung
thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó được làm kẻ bảo vệ
ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù. Và một khi trò đời hạ màn, thần
chết đến rước linh hồn ta đi, để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi
ấy, khi tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay
đi để sống tiếp cuộc đời của họ. Thì khi ấy vẫn còn bên nấm mồ ta - con chó cao
thượng của ta, nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh
giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã chết
rồi!”
Bài bào chữa của luật sư George Graham Vest làm
cho thân chủ của ông thắng kiện và sau này Phóng viên Wiliam Safire của tờ Nữu Uớc Thời Báo
(The New York Times) đã bình chọn đó là bài diễn văn hay nhất trong tất cả những
bài diễn văn trên thế giới khoảng 1,000 năm trở
lại.
Trên chuyến xe chở hoàng hôn vào phố, cây bàng thời thơ ấu
còn nguyên tiếng đời đi vội vã. Riêng anh, biển vẫn ngược về sông. Những dấu
chân qua miền dâu bể. Anh viết xuống những điều vu vơ nơi gian phòng đêm trống
hoát. Có tiếng động gì không rõ ngoài kia, như câu thơ của một mùa không ngủ.
Mùa đông sẽ nằm lại sáng mai. Nhưng những người đi qua đời
nhau rồi trở thành xa lạ. Họ quên hết những con đường trong câu chuyện cỗ tích.
Sự phiêu bạt của người này để rồi làm xanh thêm đợi chờ của người kia. Điện
thoại reo giữa chiều lộng gió. Có những điều sao cứ mãi phân vân, giữa hai bờ
chộn rộn. Ngã tư đèn vàng như con mắt chiều thoi thóp.
Có những điều anh không muốn nói ra. Chẳng hạn những cuộc
tình buồn như mưa bóng mây. Những năm tháng mù sương. Bảo Lộc cách xa Sài Gòn
125 cây số đường dài. Nhưng còn khoảng cách giữa hai người yêu nhau làm sao đo
được?
Anh dấu đời mình nhưng không đủ kín, nên em nhìn suốt lòng
anh. Những tình yêu về đâu khi miệng đắng môi
cười?
Nhiều buổi sáng thức giấc nhìn ra vườn, bổng dưng cồn cào
nhớ biển. Ngôi nhà không đủ ấm và đóa hồng lạnh bao dung với đời, mùa đông này
mình quen nhau...
Năm 1991 anh định cư tại Hoa Kỳ. Tháng ba rét mướt như bây
giờ. Buổi sáng chủ nhật tuần lễ đầu tiên anh rời khỏi chung cư băng qua bên kia
đường Lamar, tìm đến một siêu thị Việt Nam. Nơi đây anh tìm thấy vài tờ báo cũ
bị cắt bìa, chuẫn bị trả về cho nhà phát hành. Anh mua lại vài số báo tượng
trưng có thời gian gần nhất. Đó là tài sản văn chương đầu tiên mà anh có ở nước
ngoài.
Từ những trang báo hiếm quý đó, anh bắt đầu viết trở lại.
Những bài tạp ghi báo hiệu một cõi lòng phục sinh sau tháng năm dài chết ngất.
Sài Gòn lùi lại sau lưng. Kỷ niệm như mưa bụi trải lên bàn phím ngã màu làm bâng
khuâng con chữ. Ngọn cỏ xanh hổn hển bên ngoài và vầng trăng vừa phập phồng khát
vọng.
Những ngày như vậy anh hạnh phúc biết bao và giàu có biết
bao. Anh chưa biết bon chen và vai chưa mệt mề cơm áo. Nỗi buồn cũng chưa trôi
qua kẻ tay.
Từng buổi sáng cuối tuần có tiếng mưa bay trên bảng hiệu,
làm mát chỗ ngồi trong quán cà phê quen thuộc. Anh yêu đời, yêu người. Yêu luôn
màu xanh của biển.
Nhưng bây giờ lại khác. Mười chín năm trôi qua. Trên bàn
tay rối chỉ thấp thoáng những bóng đời bất an. Những bài thơ dang dở như những
vết thương nằm lại bên ngoài giấc mơ có quá nhiều bí mật.
Những danh vọng đuổi theo nhau về đâu, gió cũng buồn không
đợi mùa biển lớn. Anh như con còng gió già quanh quẩn bên bờ cát nước ròng.
Những trang văn không chở được tình yêu nên anh bất lực nhìn theo hương
sắc.
Không khi nào em hỏi anh về những điều còn mất, những hôm
nay và những ngày qua. Em cũng không đòi hỏi anh hư cấu một khung trời mở ra
bình minh, nơi có biển và trái tim rất biển. Dù vậy, anh vẫn nói với em rằng
trong mỗi cơn mơ là mỗi bước đường cơm áo. Cái còn không nhiều nhưng cái mất thì
bao la.
Buổi sáng mai hôm nay, tháng ba năm 2010. Xa cách tháng ba
năm 1991 mười chín năm. Anh nhận ra rằng mình đã chạm vào ranh giới. Dù biển
trong anh và em vẫn tràn ngập màu trăng nhưng dường như đã khác. Vì cánh buồm
chở đời anh rưng rưng, nằm lại giữa trái tim em bốn mùa độ
lượng.
Anh đứng bên đời nghèo túng như ngày xưa. Như những ngày
chưa từng mất biển. Không vàng son, không phù hoa cũng không ngọt ngào suối mật.
Giông tố và bể dâu đã làm hư hao con người và làm trái tim xơ xác. Mọi cơn địa
chấn đi qua, đều để lại sau nó nhiều đổ nát.
Nếu như mọi chuyện được làm lại, anh không biết anh có thể
làm khác hơn không? Câu chuyện “Ống Chỉ Thần” trong bài học thời thơ ấu làm anh
buồn bã mỗi khi nhớ lại.
Một người đàn ông được vị thần tặng cho một ống chỉ và nói
rằng từ ống chỉ nầy, chàng có thê nhìn thấy tương lai của mình. Mỗi đoạn dây chỉ
tương trưng cho một thời gian cuộc đời. Nghe vậy chàng háo hức muốn thấy trước
tương lai mình ra sao nên những ngón tay kéo phăng sợi chỉ vội vàng. Những năm
tháng đời lần lượt đi qua. Trong đó có biết bao vui buồn, biết bao hạnh phúc và
bất hạnh hiện ra trước mắt chàng như nhìn qua một chiếc gương soi. Cho đến một
hôm chàng chợt nhận ra bề dài của sợi chỉ không còn bao nhiêu. Ống chỉ gần đến
đoạn cuối. Hoảng hốt, chàng định cuốn sợi chỉ trở lại như lúc ban đầu. Nhưng vị
thần hiện ra cản ngăn. Đời sống chỉ dừng chớ không bao giờ trở
lui.
Em,
Những dòng sông đã đi hết chiều dài để nhập vào lòng biển.
Nhưng con thuyền muộn màng lại không về kịp.
Đêm đêm anh trãi lòng trên giấy trong khi bên ngoài tiếng
đời lạnh căm. Vài hạt mưa cuối mùa vỡ trên mái hiên khẻ khàng như tiếng chân tìm
về. Những chàng trai, những cô gái ngày xưa vào đời, ai đã từng tìm ra những bến
đợi? Ai đã từng lạc mất nhau và nghe tiếng sóng lòng ngăn
cách?
Anh đang là dòng sông cũng biết đau lòng khi em gợi trong
anh một khoang thuyền trống vắng, không được mùa cá
tôm.
Em hỏi anh những bài văn gởi đăng trên báo, có khi nào anh
viết về sự thống khổ nơi quê nhà? (Em không biết gì về chính trị và cũng không
thích nghe ai nói về chính trị). Nhưng về những người thương phế binh còn lại ở
Việt Nam, thì khác. Em muốn được biết về họ và muốn được chia sẻ với họ. Với em,
họ là những nhân chứng sống trong một cuộc chiến tranh cũ. Hình như mọi người
trong nước đều quay lưng lại với họ, nhứt là nhà cầm
quyền...
Giọng em như nghẹn và nơi đầu dây bên kia, anh nghe rõ sự
thổn thức. Anh viết nhiều trang văn, những mạch văn mênh mang như đêm chảy tràn
ngoài sông lạnh. Nhưng không giá trị bằng những lời đơn sơ của em. Anh ngại nói
về mình, nhưng ước gì anh có thể cầm được tay em để biết được trong bàn tay kia
sự hồn nhiên làm thao thức một tâm hồn già nua. Như những trận gió đêm làm mát
mẻ những thăng trầm...
No comments:
Post a Comment