BIỂN GỌI CHIỀU NAY
Phạm Ngũ Yên
1.
Mẹ tôi thường nói với tôi rằng:
- Ba con không biết chữ.
- Vậy sao? Tôi nghe mà lòng nôn nao.
- Khi về sống với mẹ, mẹ dạy Ba đánh vần.
Nhưng có một lần nhìn không ra mặt chữ, Ba nỗi giận quăng vở và không thèm học.
Như vậy, Ba tôi vào đời không từng biết
qua sách vỡ. Không từng đi qua những trường lớp và mỗi ngày ông dững dưng đi dưới
đường phố thênh thang tiếng gió và nghe tiếng sóng va vào bờ. Khi ông gặp mẹ
tôi, ông là một là một ngư phủ tài tử bên sông rạch. Tối ngày tìm kiếm cá tôm bằng
lưới vó. Không có thuyền hay ghe để ôm sông nước vào lòng.
Tôi lớn lên theo thời gian. Vũng Tàu
ngày đó chưa đổi thay nhiều như bây giờ.
Trên một bờ đá chạy dài theo đường ra
Dinh Ông Thượng, Ba ngồi nhìn ra biển. Bên cạnh ông là đứa trẻ vừa lên 5 là
tôi. Chiếc xe đạp ông dựng gần đó. Tôi không chịu ngồi yên và muốn Ba đưa tôi
xuống dưới bãi cát đang mùa nước ròng. Ông cõng tôi trên lưng và nhìn ngoái lại
chiếc xe trước khi bước men theo những tam cấp để xuống dưới. Tôi vòng tay ôm cổ
ông và nghe hơi thở ông mát rượi bên má.
Tôi được sinh ra và lớn lên trên vùng đất
này và tôi cám ơn số phận đã cho tôi một đời sống tròn trịa những mơ ước. Như
con thuyền mong đợi thủy triều lên xuống mỗi ngày, tôi khao khát được ôm Ba tôi
thật chặt từng buổi sáng đứng nhìn ra. Những cơn sóng cồn cào đang đập trong
tim ba và bao nhiêu sự cô đơn trong lòng người đàn ông giản đơn không biết bâng
khuâng vì đời?
Tuổi thơ tôi dấu kín những giấc mơ của
ông và những chiêm bao không có hồi chung cuộc…
Mười ba năm tôi mài đũng quần ở nhà trường,
tôi nhớ về Ba rất ít. Hầu hết thời gian khôn lớn tôi nhớ về mẹ tôi. Bà chia tay
với Ba nơi góc đường gian truân, khi ông vừa 33 tuổi. Ông chưa kịp thấy tôi trưởng
thành. Chưa kịp thấy tôi làm một cánh tay nối dài những mơ ước. Không phải tôi
bất công khi phân chia tình cảm để thương nhớ không đồng đều. Mà bởi vì tôi mồ
côi quá sớm. Một lần về thăm lại biển xưa, mùa hạ sóng sượt những bóng nắng
trên hàng lá bàng. Phía đường kia là phượng.
Góc phố nơi tôi lớn lên, nằm dọc theo
chân núi Lớn. Con đường Lê Lợi có hai hàng me chạy dài. Gió mát rượi từ biển
vòng về. Thổi quanh co trên vai, trên ngực ốm yếu thư sinh- dù tôi đang là
lính. Buổi sáng đẹp vô cùng nhưng không có ai đi bên cạnh. Mẹ tôi già nua và mỗi
tuần có nhiều ngày vào làm công quả trong chùa. Bà quên dần những tiện nghi, những
mưa nắng thất thường trên đời sống của mấy đứa con. Còn Ba thì nằm yên đâu đó,
lâu lắm rồi.
Lúc tôi đang ở ngoài Vùng 2, tôi nghe mẹ
tôi báo tin khu nghĩa trang sẽ được san bằng để đô thị hóa. Mộ nào có thân nhân
sẽ di dời đến một nơi khác. Bà quyết định bốc mộ ba tôi và đem hài cốt đã mục
rã để vào trong chùa. Hi vọng Ba sẽ theo những khói hương và những tiếng kinh
đêm trở về. Hồn ông sẽ đậu xuống trên những trang kinh, hay sẽ bay quẩn quanh
giữa tường khuya, như một cánh bướm ngày mộng mị?
Tôi làm một người lính trở về thăm nhà,
trong một buổi sáng đẹp như hôm nay và một mình không có ai bên cạnh. Nơi cuối
hàng me, có một công viên nhỏ do người Pháp xây, có ngọn súng thần công bằng đồng
quay họng ra phía đường. Ngày còn nhỏ, tôi theo mấy đứa bạn cùng xóm ra chơi gần
đó, vừa lượm me, vừa tìm cách trèo lên lưng khẩu súng. Đôi khi lòng cũng sợ hãi
vì những lời hăm he của người lớn, nhưng tò mò cuối cùng đã thắng. Chúng tôi
trèo lên, tụt xuống và tự hào vì đã tiếp cận và chạm đến những quá khứ. Ngọn
súng mang dáng dấp lẫm liệt của tiền nhân, mà hồn thiêng giống như tiếng gió thổi
về làm mát từng dâu bể.
Buổi sáng vắng vẻ xe cộ. Thỉnh thoảng
vài chiếc xe lam chạy từ hướng Bến Đình chạy ra chợ. Sau xe, những cụm khói tức
tửi muốn níu kéo một thuở chưa có điêu linh. Chỉ có thanh bình. Tôi đi trên bờ lề
lát gạch xanh. Đôi giầy lính không muốn làm đau lòng lớp nhựa đường phẳng sạch.
Lòng chợt muốn được đi chân không chạy ào trên phố, như ngày xưa. Không có ai
cùng đi và cùng dẫm lên một mùa hè…
2.
Tôi định không nhớ Vũng Tàu buồn rũ của
tôi, vì sau một đổi đời, mọi thứ đều trở thành cổ tích. Sẽ rất khó lòng, khi một
người đàn ông muốn nhớ về cái thời son trẻ, từng chân không chạy dẫm lên một
mùa hè. Không phải sự tiếc nuối làm người ta đánh rớt nụ cười nhưng nói sao cho
hết sự bình yên và những biến động của đời đang làm đau cả mộng.
Những đứa con đi vào đời dù mênh mông
nhưng thiếu cha, chân cảm thấy vấp trên từng nỗi buồn ngang dọc. Đêm thị thành
hiếm hoi những vầng trăng. Biển bây giờ cũng hiếm hoi những trụ đèn liêu xiêu
cũ mòn. Những hàng dương già cỗi nhìn xuống một góc đường khuya. Có tình yêu và
những lời ru về biển.
Trước khi tôi vào lớp năm (tức lớp một
bây giờ), Ba tôi không có dịp mua cho tôi những quyển tập trong mùa tựu trường.
Một điều mà ông ước ao hoài mà không được. Ông chỉ có dịp đưa tôi ra biển và vài
lần để tôi ngủ quên trên vai ông. Trước đó, tôi nằm ngước mặt nhìn lên trời, những
vì sao giống như những đóm nhang chi chít trong trí óc tôi ngày đó. Tôi hỏi ông
về ngọn đèn pha trên Núi Nhỏ:
- Có chiếc xe nào chạy rọi đèn trên đó vậy
ba?
Ánh đèn xoay vòng quanh núi, quét dọi một
vùng biển, nhìn sao giống như một chiếc xe chạy hoài trên kia. Ba trả lời, dựa theo
suy nghĩ của tôi:
- Ờ… chiếc xe của ông Thần Đèn. Ổng chạy
để soi đường cho những người lạc đường.
Tôi đem kiến thức nhỏ nhoi đó theo vào
giấc ngủ. Trên bờ đá rịn ướt sương đêm. Những vì sao cũng rưng rưng nhìn xuống
con đường thao thức núi.
Đêm đó cha con tôi ngủ một mình không có
mẹ ở nhà. Bà đang nằm nhà thương chuẫn bị sanh em gái tôi. Mấy bà chị dù không
khôn hơn ai, cũng quấn quít với bà trong đó.
Sau này, tôi lớn khôn. Tôi không nghĩ ba
tôi giải thích sai nghĩa về câu hỏi của tôi. Mà thán phục ông thêm về sự tưởng
tượng phong phú của ông. Những ánh sáng của ông thần đèn đi qua những cửa biển
xưa, giờ đã mai một không còn. Hay nếu có còn, cũng rất ít, trên quê hương tôi,
sau 1975. Nên những con tàu không còn thấy hướng để ra khơi. Những chàng trai,
những cô gái đi vào đời cũng va vấp lạc đường trên từng cây số.
Những giấc mơ cũng đỗ ập xuống bên này
năm tháng. Những tình yêu cũng vậy.
Tôi không còn hồn nhiên sau những giây
phút yếu lòng.
3.
Tôi giải ngũ về mang trong lòng nỗi đau
và thương tật bên ngoài. Tháng tư đem đến sự hấp hối và cuối cùng phủ khăn tang
trên cả nước. Tôi ngơ ngác không biết tương lai mình như thế nào, trước những lời
đường mật của phe thắng trận. Lòng đau một nỗi đau chung với những người cha trẻ.
Giống như những con thuyền muộn màng không về được tới bến, những người cha hụt
hơi bên những chặng đường cơm áo. Lời ca đau lòng còn vọng mãi một bến sông. Những
người vợ, những đứa con mãi đợi chồng, đợi cha, từ đàng sau những cơn bão.
Lúc đó là thời đại mờ nhạt của những người
cha. Họ không còn lấp lánh như sao mai và không còn là hải đăng để soi rọi những
lòng thuyền. Trên những chiều xao xuyến, họ là những vạt nắng cuối ngày. Bước
chân ngập ngừng không muốn chạm đến hoàng hôn.
Tôi lập gia đình trể và vợ tôi trở thành
vai chánh trong vỡ kịch đời. Như bao nhiêu người vợ trong thời đại Hồ Chí Minh,
nàng lăn xã tìm miếng ăn cái mặc từ phố chợ. Nàng đại diện cho câu thơ của Tế
Xương: “Bao năm buôn bán ở ven sông…” Và làm thân cò trong ca dao ướt át: “Con
cò lặn lội bờ sông. Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non…”
Biết bao nhiêu người cha trở thành người
nội trợ bất đắc dĩ và bất phùng thời. Từng tháng năm trầy trụa trên vai những
người đàn ông. Những mùa thu phai cứ đỏ màu day dứt.
4.
Khi tôi biết về cuộc đời, biết về Ba tôi
thì tất cả đều đã muộn. Tháng sáu có mưa về trên mái tôn của căn nhà dười chân
Núi Lớn. Khi Ba tôi mất, mẹ tôi một mình cáng đáng mọi chuyện. Chúng tôi còn nhỏ
chưa đủ khôn lớn để có thể phụ giúp cho bà một tay.
Tấm hình duy nhứt mà chúng tôi có được về
ông là tấm hình ông đứng dưới một ngôi chùa gần Bến Đình. (Một phần của chùa
sau này trở thành Thích Ca Phật Đài). Vài cây bông sứ buông cành sau lưng ông
và những vạt nắng loang lổ trên vai áo. Ông mặc quần áo nghiêm chỉnh và diện một
đôi giầy tây. Tôi còn nhìn thấy rõ nếp gấp ở hai ống quần ka ki màu trắng. Bức
hình đã úa vàng. Tôi cố hình dung những nét quen thuộc từ ông và so sánh coi
tôi giống ông nhiều đến mức độ nào.
Ba tôi đã về cõi nào đó trong chốn xa im
lặng. Chiếc xe đạp tôi không nhớ nó không còn trong gia đình từ bao giờ. Tôi đi
đến trường một mình, ngày hai buổi cùng cặp sách trong tay. Ngang qua những bờ
đường nghe đất đai chuyển mình, trăn trở. Những chòm gai lấp lóa hồn hoa dại.
Mà nỗi buồn chạy đuổi theo nhau, về đâu?
Tôi chưa kinh nghiệm được sự mất mát nó
lớn lao dường nào. Cái khoảng trống dù biết là sâu thẩm, nhưng rất mơ hồ. Mãi rồi
cũng quen. Những gì thoáng qua, mấy ai còn giữ lại.
Qua năm năm Tiểu học, tôi vào Trung Học.
Hàng me bên đường Lê Lợi già nua theo thời
gian. Màu nhựa đường vẫn trãi lòng theo tháng năm và lớn khôn theo đời người.
Mùi muối từ biển bay về chạm ngang qua khứu giác. Những vị mặn bồng bế tôi trở
về cùng ký ức. Chật đầy một ngã tư.
Ngôi nhà mà tôi ở đã đổi chủ. Với số tiền
trợ cấp của chính phủ Pháp đền bù sau cái chết của Ba tôi, mẹ tôi bán căn nhà
hai phòng và thêm tiền mua một căn nhà có 3 phòng gần đó. Căn cũ bà bán cho một
hãng làm gạch bông. Mỗi ngày đi học tôi đều đi ngang căn nhà kỷ niệm. Những người
thợ làm gạch thu xếp những vữa xi măng non trộn với vôi màu, bỏ vào một cái hồ.
Một máy ép gạch chạy bằng điện chiếm một góc sân. Những đóng gạch ngay hàng thẳng
lối. Mỗi lần đi qua, tôi cảm nhận được hơi thở của mùa màng rung trên tuổi thơ.
Có tiếng chim hót đuổi theo những lời gì tôi không hiểu.
Mùa hè, mưa kéo theo những dòng nước từ
núi, chảy tràn xuống đường. Qua những mảnh vườn được chị em tôi tạo dựng từ một
mùa xuân. Nơi mà những trái đậu rồng, những dây mồng tơi mọc lên hớn hở. Cũng
có vài cây đu đủ, cây chùm ruột, cây ổi vừa ra trái non. Tôi có những đêm thức
khuya học bài, nhìn ra khu vườn đó. Khung cửa không khép nên gió thổi vào lồng
lộng. Trụ điện mọc lên nơi ngã ba soi ánh sáng hiu hắt xuống một vạt cỏ, phân
chia hai hướng đường. Biển ngoài xa chưa gởi tới lời thầm thì của sóng, trong
khi đêm dè dặt đem nỗi buồn đến bất ngờ.
Những lúc yếu lòng nhất của con người
chính là thời gian giữa đêm. Tôi không còn lòng dạ để ôn bài. Không lâu nửa tôi
sẽ bắt đầu cho kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp. Tôi không chắc tôi có thể vượt
qua. Có những băn khoăn làm giảm sự học hành của tôi. Mỗi băn khoăn gói gém một
lời tâm sự. Dù không tròn trịa, nhưng những điều đó có khả năng trì kéo tâm hồn
tôi ngã xuống những đau khổ.
Bao nhiêu đứa con vào đời không cần có
cha bên cạnh? Tôi không biết. Nhưng với tôi, người cha là chỗ dựa vững chắc cho
mọi đứa trẻ. Nhiều năm rồi, tôi đi xuống đời một mình, không có Mẹ mà cũng
không có Ba. Mẹ tôi mất sau này, khi tôi đã ra hải ngoại. Nhưng lúc còn trong
nước, tôi cũng không có cơ hội đi với Bà. Những bước chân qua cầu, qua những
dâu bể không từng có dấu chân của hai đấng sinh thành. Những mảnh trời khuya lướt
thướt sao đêm, có hai vì sao nào là đôi mắt của Ba tôi nhìn xuống?
Một ngày có gió mùa làm rụng những lá
bàng. Từng chiếc lá to nâu đỏ bay lạc vào căm xe. Tôi thấy lạ lùng vì Ba vui
hôm đó. Ông điều khiển tay lái một cách điệu nghệ, có lúc ông buông rời một tay
để ôm vòng ngang lưng tôi. Những lúc đó tôi sợ xe sẽ ngã. Nhưng không có gì xãy
ra. Ông nói:
- Con muốn đi uống cà phê với ba không?
Không đợi tôi trả lời, ông quành xe ra
chợ. Dừng xe lại ở một quán cà phê do một người Tàu làm chủ, đở tôi xuống. Tôi
háo hức nhìn người ta ăn uống. Những chiếc bánh giò cháo quảy, những chiếc bánh
in, bánh cam, bánh bò bía ngày đó, đối với tôi là những món ăn thịnh soạn. Mùi
cà phê vang lừng một góc thềm. Vừa kêu cà phê cho ông, vừa kêu cho tôi một cái
bánh in đậu xanh. Và thêm một bình nhôm trà. Tôi đói ăn nên muốn được ông chia
sẻ thêm một cái giò cháo quảy của ông. Ông cười và nói:
- Con ăn hết rồi ba kêu thêm. Thằng này
con mắt lớn hơn cái bụng…
Đôi lúc tôi nghe ông nói chuyện với ai
đó nơi bàn bên cạnh. Những câu chuyện của người lớn tôi không nhớ hết và không
biết tại sao mà người ta vớt ra ở đâu những câu chuyện dài dòng đó để nói với
nhau.
Đầu tiên, người đàn ông hỏi:
- Thằng nhỏ mấy tuổi đó?
- Năm tuổi. Ba tôi trả lời
- Tuổi gì?
- Tuổi con gà.
Người khách nghiêng đầu nhìn tôi, rõ
ràng là đang đánh giá một con gà chưa mọc đủ lông cánh.
- Nó đi học chưa?
- Sắp. Tựu trường này. Ba tôi trả lời
sau một ngụm cà phê.
Tôi nhìn trân trối vào ly cà phê của
ông. Màu đen như màu trời đêm mà tôi và Ba ra ngồi ngoài biển.
Tôi mãi miết thưởng thức những vị ngọt,
những mùi thơm từ món ăn, không còn để ý hai người nói với nhau thêm điều gì. Và
trong bụng rất sợ phải trả lời một câu hỏi của ai đó.
Sau này, tôi mới biết hôm đó Ba vui vì
nhà có thêm em bé. Ngày mẹ tôi vừa ra khỏi nhà bảo sanh, những cây bàng già im
nín gió.
5.
Có một thời tôi thích viết về hoa phượng
đỏ. Không phải chỉ vì hoa đẹp và màu hoa gợi lại thời xưa cũ. Không phải vì từ
một màu hoa như vậy, tôi từng biết tương tư. Mà từ đó, tôi cũng gậm nhấm sầu muộn
và thấm thía một trò chơi dang dở. Nỗi buồn trầy trụa tháng năm.
Cuối năm, tôi thi đậu Trung Học Đệ Nhứt
Cấp. Tôi biết nói sao cho cùng niềm vui vì tôi nghĩ mình may mắn. Tôi học trung
bình và mỗi cuối năm chỉ vừa đủ điểm để lên lớp. Ngày dò tên mình trong bảng
danh sách niêm yết ở trường, không có Ba để chia vui. Những đứa bạn khác con
nhà giàu, sau kết quả là những món quà làm ngợp một tuổi thơ.
Buổi sáng thức dậy, tôi đạp xe ra biển.
Nghe bốn bề mênh mông nhưng thân thiết vô cùng. Giống như một người vừa biết
yêu tôi nghe cái nắng Vũng Tàu làm chói chang trong lòng. Tôi ngỡ tôi đang trưởng
thành và nôn nóng vào đời, dẫu biết những cơn gió buồn rồi sẽ thổi qua những
vai đời non yễu.
Tháng sáu, tháng bảy, sân trường không
còn ai. Còn chăng người gác dan già mỗi buổi chiều gom lá rụng vun đầy một góc
sân, để cuối tuần đem đốt. Mùa hè, gió cũng trốn biệt. Thành phố xanh mà biển
cũng xanh.
Trước khi chiều xuống, tôi quay xe trở về.
Vài người bạn học cùng trường đang đá banh dưới bãi cát. Tiếng va chạm vào
nhau, tiếng bóng tưng lên xuống và những tiếng thở mệt nhọc. Những khách vảng
lai đến từ Sài gòn cũng thôi không còn tắm biển. Nhường lại biển khơi cho những
cánh buồm. Vài đôi tình nhân nắm tay đi dọc thềm đá vừa nhả những ánh nắng nhấp
nhô. Họ nghe khúc tình ca dâng trào từ những cơn sóng.
Số phận không còn mỉm cười với tôi,
trong kỳ thi Tú Tài. Tôi rớt hai lần trong hai mùa thi liên tiếp. Buổi sáng làm
bài thi, tôi nộp bài bằng những trang giấy trắng, đi qua những thầy cô giám khảo
mặt khó khăn mà không muốn chào. Hai tuần sau, không cần đọc danh sách vẫn biết
không có tên mình trong đó. Đó là cuối mùa hè
năm 1965. Mẹ tôi không còn sức khỏe để bương chải nhiều như ngày xưa. Mấy
chị em tôi, mỗi người tự lo sống. Tôi biết có một nghề chờ đợi tôi mà không cần
kinh nghiệm. Nghề cầm súng. Người ta sẽ dạy tôi làm cách nào để biết ước tính
khoảng cách từ lổ châu mai đến đỉnh đầu ruồi. Và thao trường sẽ dạy tôi biết đổ
mồ hôi để sau này ra chiến trường bớt đổ máu.
Chiều nay tình cờ gặp phượng. Màu hoa thắm
một góc đường ra biển. Những tà áo không còn vụt qua nơi sân trường. Người gác
dan già của trường không còn góp lá khô để nghe tiếng đời đi vội vã. Có gả trai
tưởng mình khôn lớn, không ngờ bé bỏng rưng rưng. Mỗi bước chân đi về phía trước,
dẫm hoài lên thất bại này đến thất bại khác.
Không biết từ thôi thúc nào, cuối cùng
tôi thấy tôi ngồi trong quán cà phê có người Tàu làm chủ. Quán có tên là Liên
Tinh. Ly cà phê bồi hồi như chưa từng thấm qua cuộc đời đắng ngọt. Những người khách
gồm đủ thành phần. Đa số là những dân lao động. Vài người không có chỗ, ngồi
ngay trên xe xích lô. Chợ chiều vừa mãn. Bạn hàng chưa kịp thu dọn những tán dù
che nắng buổi trưa. Bụi bậm rã rời như phấn hoa đậu xuống. Dưới ngọn đèn đường
vừa thấp lên, ngày cũng vừa vỡ tan chấp chới. Mười mấy năm trước ai đó đã soi
mói nhìn tôi, như nhìn một con gà chưa nhiều lông cánh. Tôi chỉ là một con gà
trong hàng triệu con gà trong cõi sinh linh. Không đủ mỏ mồng để gáy lên niềm tự
hào vì cuộc đời sa bại. Chỉ biết đào xới mỗi ngày để kiếm miếng ăn.
Tôi ngồi đếm nỗi buồn chưa từng biết gọi
tên. Mùa hạ sẽ không còn trên thành phố bình yên. “Mỗi mùa vắng đi một người…” Lời của bài hát lẫn quất như một định mệnh. Đứa
con trai bỏ trường bỏ lớp không chờ đợi trưởng thành. Những đôi chân mõi vì sỏi
đá đường dài. Những mái tóc tơi bời vì gió, bởi không kịp một bờ lưng nương tựa
của người cha. Có chỗ nào ngồi lại. Chiều nay?...
PNY