văn
Phạm Ngũ
Yên
phụ bản trích từ Gió O
Có một chút hơi sương bay qua chỗ tôi ngồi. Thời gian là
mười giờ sáng. Không gian là tư gia của đôi uyên ương rất quen thuộc nhưng cũng
rất nồng nàn của thành phố Slidell, thuộc tiểu bang Louisianna. Ngôi nhà, tự nó
là một góc riêng giữa nhánh đời trăm hướng- từng hứng chịu thiên tai, cũng như
từng đón nhận những lạc thú. Sau mỗi nắng lên, mỗi ngày xuống, bây giờ cành
hồng trước nhà vẫn trẻ trung như tâm hồn gia chủ ngày nào. Có cả cây thông già
bị bão làm bật gốc, trở thành một dấu tích lặng lẽ nhìn ra góc đường
Shakespeare, và khu phố chưa hồi sinh vì kinh tế đang trì trệ.
Nhưng với tôi, buổi sáng nay thì thời của tàn phai và bão
tố đã qua. Cái cảm giác thân mật từ những lần ghé thăm New Orleans vẫn còn nguyên,
cùng cung cách riêng tư không giống ai của hai vợ chồng người nghệ sĩ, cách đây
vài năm đã hiên ngang “đứng dưới trời đổ nát”. Đó là nhiếp ảnh gia Hữu Việt và
nhà văn nữ Nhật Nguyễn - đã làm tôi ngưỡng mộ. Không phải riêng tôi mà hình như
hầu hết bằng hữu đều cảm thấy như vậy.
Tháng giêng thơm ngát mùi hương của hoa tật lê sau vườn và
tiếng ấm nước vừa kêu sôi trong chái hiên bên ngoài, nơi mà Nhật Nguyễn và
chúng tôi thân mật gọi là quán cà phê Cổ Tích.
Trong quán cà phê Cổ Tích này, khi chúng tôi tề tựu lại,
người đàn bà sinh quán tại Bảo Lộc và có một thời say mê những đóa dã quỳ đã
đòi chúng tôi viết xuống những câu thơ, lên bất cứ chỗ nào có thể viết được,
trong lúc người bạn đời của nàng, đang loay hoay điều chỉnh lại máy ảnh. Những
ngày đông đầy mưa bên ngoài nhưng bên trong là những ngụm cà phê làm bỏng môi,
từng rối bời mỗi băn khoăn. Nơi đó từng đón nhận
những dừng chân, để rồi sau đó là ly biệt. Những thao thức và mơ ước trộn lẫn
vào nhau, như một nhánh sông ngậm đỏ phù sa trong lòng.
Cho nên khi viết xuống những câu thơ, tôi nghĩ rằng có một
chút lòng riêng của tôi về cái thành phố New Orleans. Và không biết sao tôi vẫn
thương vô cùng cái thành phố đó. Một phần vì nó gánh chịu một thiên tai làm
sững sốt những trang sữ thầm lặng, kể từ thời Vua Louis của nước Pháp sang
nhượng vùng đất đó lại cho Hoa Kỳ. Sự tàn phá của cơn bão Katrina và những hệ
lụy- theo sự đánh giá của các nhà xã hội- đã làm lung lay một nền tảng từng
thao túng nhiều năm trên chính trường Mỹ Quốc, để cuối cùng kéo theo sự sụp đổ
của đảng Cộng Hòa. Một phần vì thổ ngơi đó đã từng chứa đựng cũng như đã từng
khởi sinh một nền văn hóa trù phú đa dạng, trong đó âm nhạc và lễ hội là phần
chính. Những góc phố cũ kỹ nhưng đầy mới mẻ vì chứng kiến mọi màu da quy tụ về
đây mỗi tuần. Từng hơi thở hổn hển lẫn đắm đuối giống như gió đêm không ngừng
đậu xuống. Trên những bờ ngực phì nhiêu, những tóc tai bồng bềnh. Và tiếng cười
trang sức bằng nỗi khổ đau, nếu quả thật có một khổ đau nào đó. Mọi hàng quán
chật kín tiếng nhạc Jazz suốt từ chiều tối đến tận bình minh. Đàng sau lưng các
băng ghế ướt đẫm mù sương là nhánh sông Mississippi và những thân tàu vô cảm.
Những con đường buồn chạy dài qua một vùng đầm lầy khô cạn
ngày nào đã trở mình để kịp đuổi theo những vòng xe lữ thứ. Nơi dấu trong lòng
nó những con cá sấu làm bộ hiền lành như các cành cây mục. Nhưng hãy coi chừng.
Giống như tình yêu của ai đó dành cho tôi, âm thầm. Nhưng đau đớn bầm vập những
vết răng từng nghiến nát thanh xuân trong khi trái tim nàng khép lại với tôi để
mở về một hướng khác. Rất vui và lộng lẫy màu đời.
Lúc tôi ngồi trong quán ăn của Hữu Việt, nhìn ra con đường
Bourbon trước mặt, nắng chiều còn lảng đãng ngoài xa không chịu về. Những gác
trọ nhô mình ra phía trước che ánh sáng mặt trời cùng những balcon cũ mòn nhìn xuống đường phố bên
dưới. Khoảng sân trải nhựa trân mình nghe thương tích khi mỗi đời xe vụt qua.
Vại bia trước mặt và đĩa đồ ăn nấu theo lối Pháp đem ra bởi người phục vụ. Một
đĩa bít tết có kèm theo đậu Petite bois với hạt tiêu hầm cùng những khoanh bánh
mì Pain đặc chế theo cách Parisien. Tôi nghe tiếng sóng mơ hồ ngoài xa. Những
quán bar mệt lã chưa lại sức vì suốt một đêm không kịp ngủ. Hữu Việt nói với
tôi- một trong đặc điểm của thành phố là sự cũ kỷ được giữ nguyên. Dù nhà cửa
có tuổi đời hàng trăm năm nhưng chính quyền không cho phép xây cất lại. Tất cả
đều được duy trì, từ màu sơn đến chất liệu xây dựng. Sự kiến trúc theo nhiều
góc cạnh mang dấu vết các nền văn hóa Âu Châu thời Trung Cổ, nhưng riêng rẻ,
không trùng lập.
Mùa đông có những con chim bồ câu trốn lạnh bay về đậu trên
những đầu hồi. Chúng nhìn xuống bộ hành bên dưới. Vài nghệ sĩ hát rong ôm đàn
gieo những âm thanh cuốn hút theo những xào xạc áo xiêm.
Làm sao tìm kiếm giữa xao động và rét mướt ngoài kia một
bước chân trở về của ai đó? Tôi tự nghĩ, trong khi vại bia được đem ra lần thứ
hai. Bình đá không còn lấp lánh nắng chiều. Hữu Việt đang vào trong để dặn dò
thức ăn vì thực khách đã lần lượt bước vào quán.
Bây giờ ngồi một mình trong một góc quán, giữa khung cảnh
ồn ào của xe cộ và người đi như lá xanh, tôi vẫn thấy nguyên vẹn một góc đêm
trong vườn nhà nàng, hơi thở của mùa xuân bốn mươi năm trước. Ngày đó nàng còn
thơ dại và tôi còn liều lĩnh biết bao. Ngày đó trước mặt nàng là bếp lửa và
những cời than âm ỉ một tình yêu vội vàng. Đêm có những vì sao hờn dỗi trốn đi
đâu và tôi lang thang suốt một buổi chiều trên những góc phố lặng câm. Cuối
cùng tôi thấy tôi đứng trước nhà nàng. Như cơn gió mõi chân không chịu bay đi.
Cành ngọc lan trước bàn học của nàng lạnh buốt như được tẩm bằng nước đá. Điếu
thuốc Bastoz xanh mà tôi không biết là điếu thứ mấy đang băn khoăn giữa hai kẻ
ngón tay. Tôi nhủ lòng mình hãy vui và đừng sớm vội già nua nhưng sao vẫn nghe
buồn khi cơn mưa chạy dài qua phố.
Ngọc ra mở cửa. Hương thầm theo gió rơi trên má nàng. Khung
cửa bâng khuâng màu đêm. Có những điều mà hai người khi yêu nhau chưa từng nói
với nhau, nhưng rét mướt đã làm thay điều đó. Có biết bao nụ cười làm thành hơi
ấm mùa xuân và chính nhờ vậy tôi yêu vô cùng thành phố có nàng đang sống.
Ngày ấy tình yêu còn rất trẻ. Chỉ biết đam mê mà chưa biết
lỡ làng. Tôi và nàng vẫn như ngọn gió thổi mơn qua đời nhau, thầm thì. Những
mùa đông hốc hác. Những mùa đông tôi lấp trên môi trên trán nàng ngấn ấy nụ
hôn.
Mười bảy tuổi, Ngọc đang học Đệ Nhị trường Nữ Trung Học Bảo
Lộc. Còn tôi, người lính Truyền Tin xa nhà, từng trôi giạt nhiều nơi trước khi
về trú đóng tại đây. Các địa danh quan trọng của vùng 1 và vùng 2 chiến thuật
tôi đã ghé qua. Đà Nẵng, Pleiku, Ban Mê Thuộc, Quảng Đức, Tam Kỳ. Những khu phố
lầm lũi mưa đêm và lướt thướt sương ngày để tôi tương tư một màu son thiếu nữ.
Quán cà phê Dinh Điền ở Pleiku nhìn ra khu chợ trời Diệp Kính, hay quán cà phê
Đợi ở Tam Kỳ đều là nơi tôi đóng hụi chết và muối mặt ghi sổ hàng tháng. Nhiều
tuần lễ tôi không dám đi ngang vì trong túi không còn tiền để trả cho chủ quán.
Các phi trường Phụng Dực, Liên Khương tưởng chừng lúc nào cũng phủ đầy bụi đỏ.
Các chuyến bay quân sự mang tên C.123, C.130 lên xuống mỗi ngày để bốc người,
để chuyển quân. Những định mệnh trùng lập và rực rỡ một màu đời nhưng đối với
tôi ngậm ngùi quá đổi. Và một trong những góc không gian thời gian như vậy, tôi
gặp và quen nàng. Sự bất ngờ làm nên một định mệnh, đến nổi khi tôi muốn thoát
ra khỏi những hệ lụy từ một đôi mắt hay một bờ môi thì đã muộn. Tôi đã yêu nàng
vô cùng.
Từ thuở xa xưa trong huyền thoại, Thần Promethee đã xuống
trần gian và mang theo lửa để sưởi ấm trai tim con người, nên những đôi tình
nhân yêu nhau không còn cảm thấy lạnh lẽo. Những thịt da cùng môi miệng không
còn đắn đo để chia xẻ với nhau chút ấm áp tàn đêm trong khi thời gian trôi qua
khung cửa một mình.
Cuối cùng tôi cũng xa nàng. Vì đêm quá rộng dài mà lửa thì
không thể cháy tận đến bình minh. Những ngọn nên quấn quít, mong manh. Như thân
thể của nàng ngày đó.
Khi tôi xa nàng cũng là lúc những đóa dã quỳ hai bên đường
ra phi trường Cam Ly nở ra để từng chứng kiến tình yêu mệt mõi của chúng tôi.
Đâu rồi nụ cười thấp thoáng nút ruồi dưới khóe môi như một vết tích lầm lỡ.
Nàng chưa từng nói với tôi lời từ biệt và tôi cũng không chờ đợi điều đó. Tôi
ngơ ngẩn nhìn theo bước chân của nàng. Thành phố luôn im ả nhưng sống động biết
bao. Hôm nay trong cõi lòng người đàn ông già tiếng mưa rụng xuống lạnh căm.
Đồng thời cũng rung lên màu quá khứ.
Có những bài học dạy cho chúng ta biết về sự kiên nhẫn cũng
là lúc đêm mênh mông bày ra nỗi khao khát đợi chờ. Màu áo em mang trên người
ngày đó rơi rớt nét thị thành trong khi tôi là một gã con trai còn quê mùa vùng
biển.
Những bước chân của nàng từng đi ngược về phía tôi. Vượt
qua để đi về hướng khác. Màu hoa vẫn vàng rực không thôi. Nàng trẻ trung và còn
cả tương lai. Còn tôi? Những đóa dã quỳ vẫn ngậm trong lòng sự vô cảm của thời
gian kể từ khi tôi rời Đà Lạt. Giống như một đời lá hiện rõ hơi thu trên những
đường gân vàng úa, tôi phơi bày sự đau khổ chín mùi trên những sầu đạo. Gần bốn
mươi năm, sự đau khỗ vẫn còn nguyên ngày nào, như vết mực lấm lem trên trang
giấy thời thơ dại.
Khi tôi còn trong quân ngũ, Ngọc đang học đệ nhị. Tình yêu
của một người lính không đủ xanh mướt như những cành ngo nhưng đủ làm những
bước chân tôi ngại ngần đi dưới đường mưa qua nhà nàng. Cùng những khao khát
chất chồng lên nhau như lá mùa rơi rụng. Năm tháng đi qua vội vàng. Tôi không
còn cơ hội ở bên cạnh nàng sau mùa đông đó. Nàng đổi về học ở Đà Lạt. Còn tôi
trở lại Trường Truyền Tìn làm huấn luyện viên. Tình yêu chúng tôi bị đứt đoạn.
Đó là năm 1970.
Công việc hàng ngày của tôi là chuẩn bi bài vở và thiết trí
mày móc để đón nhận các khóa sinh đến học. Khóa học chuyên về vô tuyến viển ấn
tự- Một ngành chuyên môn chuyển tiếp giữa hệ thống truyền tin cũ và mới- là
Morse và Teletype- Morse xử dụng ngón
tay gõ trên các Manipe và phát đi tín hiệu “tít- te” dài ngắn tùy thuộc vào 24
chữ cái. Còn Teletype- dùng máy đánh chữ bằng điện và chuyển đi tin hiệu qua hệ
thống Siêu tần số. Tín hiệu sau đó sẽ được nhận và biến thành chữ hiện trên các
máy đánh chữ ở một Trung tâm truyền tin khác. Teletype là tiền thân của e mail
sau này. Thời của tôi, Cục Truyền Tin (dưới quyền của Đại tá Phạm Văn Tiến) đã
từng thiết lập hệ thống cáp ngầm xuyên đại dương để hai chính phủ Hoa Kỳ và
Việt Nam Cộng Hòa liên lạc với nhau mà không sợ gián đoạn vì sự giao thoa của
thời tiết. Hệ thống chuyển tin tức đó được gọi là hệ thống viễn liên, dể bảo mật
hơn là phương pháp Morse- Dĩ nhiên là hệ thống phải qua một vài trạm chuyển
tiếp. (Cam Ranh Bay và Núi Lớn ở Vũng Tàu là một trong những trạm chuyển tiếp
như vậy). Khóa sinh đa số đều thuộc các đơn vị bộ binh từ bốn vùng chiến thuật
đổ về, có một vài người là Hải quân. Sau khóa học, họ trở lại đơn vị. Có vài
khóa tôi tiếp nhận toàn là Nữ Quân nhân. Họ học chuyên môn về đánh máy để trở
về bổ sung cho những trung tâm truyền tin diện địa- tại các Tiểu Khu. Một số
trở thành nhân viên Tổng Đài. Một số tiếp tục là nhân viên viễn ấn, chuyển nhận
công điện đi, đến trong vùng.
Thời gian huấn luyện của tôi chia theo thời khóa biểu, mỗi
tuần có vài chục giờ. Ngoài giờ huấn luyện, tôi rảnh rang đọc sách và viết bài
gởi đăng một vài báo ở Sài Gòn. Vì trong thời chiến tranh, tôi cũng tuân theo
vài quy định của quân trường, trong đó có việc cùng với khóa sinh lên phiên
trực và ứng chiến. Dù thảnh thơi, nhưng tôi không thích cái không khí gò bó của
quân trường, với những khuôn khổ áp đặt mà một người lính trẻ như tôi cảm thấy
khó lòng tuân thủ. Như quân phục chỉnh tề và theo đúng giờ giấc mỗi ngày. Mỗi
tuần sáng thứ hai huấn luyện viên cùng khóa sinh phải có mặt đông đủ để chào cờ
ở Vũ Đình trường. Đó cũng là thời gian tôi đau khổ vì chờ đợi vị Chỉ Huy Trưởng
duyệt binh, khám quân phục, tóc tai, giầy vớ và sau đó nghe huấn từ. Buổi sáng
đầu tuần như vậy, diễn ra dài ngắn tùy theo cảm hứng của vị Chỉ Huy Trưởng (lúc
đó là Đại Tá Vũ Duy Tạo).
Tôi không nhớ là một lúc nào đó, Ngọc trở về Vũng Tàu để
tìm tôi. Một đêm tôi từ quân trường về nhà- lúc này tôi ở chung với Mẹ tôi- tôi
nghe nói có nàng đang ở trong phòng khách. Chiếc túi xách chứa đựng hành trang
đường dài để dưới chân. Mẹ tôi tránh né để chúng tôi nói chuyện riêng. Nàng
nhìn tôi bằng đôi mắt buồn nhiều hơn vui và thầm thì: “Em nhớ anh”. “Anh cũng
vậy”. Tôi đáp lời nàng. “Có ai biết em về đây không?” Tôi hỏi đồng thời hôn lên
trán nàng. “Không ai biết. Ba mẹ em không muốn em yêu anh...”
Câu nói của nàng rơi xuống giữa im vắng của gian phòng
nhưng làm nhói trong lòng tôi nỗi xúc động bao la mà mãi một lúc sau tôi mới
bình tâm trở lại. Chưa gì tôi đã hình dung ra mọi tình huống khó khăn và những
điều không suông sẽ tiếp theo một khi chúng tôi vượt qua những rào cản xã hội.
Tình yêu lúc nào cũng ngát hương. Nhưng khu vườn không phải luôn dịu dàng những
đóa hoa nở bên những ấm lạnh tình đời. Mà đôi khi còn đón nhận nhiều bão tố.
Tôi đưa nàng ra phố để tìm một quán ăn. Sau đó chúng tôi
thả dài xuống biển. Nàng đi bên cạnh tôi, mảnh mai như ngày nào. Chiếc áo thun
bó sát màu đen và chiếc quần Jean cũ mang vẻ bụi đời. Mái tóc không cột bay về
phía sau. Tôi ít khi thấy nàng trong trang phục như vậy từ khi tôi quen nàng.
Vì Vũng Tàu dù sao cũng không lạnh như Bảo Lộc để lúc nào ra đường nàng cũng
mặc áo len.
- Mấy đứa em của em ra sao?
- Tụi nó vẫn đi học. Chính nó hỏi thăm anh.
Chính là tên của em trai của nàng. Nó là một trong mấy đứa
em không phản đối tình yêu của nàng dành cho tôi.
Tôi đưa nàng đi trên những đoạn đường mà ngày còn đi học
tôi thường đi. Tôi chỉ cho nàng một vài địa điểm ghi đậm dấu vết thời thơ ấu,
trong khi nàng im lặng bên cạnh. Lòng nàng đang ngổn ngang rối bời, có lẻ. Một
cô gái trẻ muốn đi về phía chông chênh trong khi bước chân chưa biết trầy trụa
vì đời. Gió suồng sã trên tóc nàng. Có một lúc tôi vòng tay ôm nàng khi đi qua
một đoạn vắng. Nếu là ban ngày, tôi sẽ chỉ cho nàng thấy bãi cát nước ròng.
Những dịp như vậy, biển trở nên xa xôi hơn và làm mờ mịt những cánh buồm. Biển
muôn đời vẫn xanh, nhưng đôi khi biển đục ngầu màu sậm. Ðó là những ngày mưa
bão.
Mười bảy tuổi, Ngọc có dáng điệu của một cô gái trưởng
thành. Tôi kinh ngạc mỗi lần gặp lại nàng. Có một điều gì rất gần nhưng cũng
rất xa khi nghe hơi thở của nàng bên cạnh. Như một lời chim bay qua cõi lòng
trống vắng. Trong lúc mưa bay lất phất từng sợi nhỏ trên vai nàng, tôi thấy tôi
già nua trước tuổi. Tôi đang té trong ánh mắt long lanh của nàng và gần như mắt
cạn trong đó. Biển đang vật vã từng cơn sóng đục ngầu rác rến và phù sa từ đâu
trôi về. Lòng tôi cũng sậm một màu buồn khi nghĩ đến lúc nàng không còn tại
đây. Những năm tháng mù sương và bóng ai sẽ biền biệt ở cuối đường có hàng cây
phong trần bụi bậm?
Có những giấc mơ hấp hối rồi chết bên đời. Tình yêu của tôi
một ngày nào sẽ cũng như giấc mơ đó và trôi tuột vào trong quá khứ. Nhưng tôi
không muôn nghĩ tới điều này nên tôi vẫn đi bên cạnh nàng với một niềm hân hoan
như đợt sóng mơ hồ đang xa rời bờ cát. Tôi biết nàng yêu tôi như tôi đã từng
yêu nàng. Nhưng tình yêu đó có phải là một cơn mưa? Để bay qua mọi hiên đời
trống trải và không đọng lại trong lòng nhau, một lần?
Con đường xuôi về phía Bãi Sau, gần nhà Bưu Điện, tôi nhớ
có một quán cà phê có tên là Năm Tròn. Quán mở cửa từ sáng sớm đến tận khuya.
Tôi đưa nàng đến đó.
Đang giờ đông khách nên quán không đủ chỗ ngồi. Người uống
cà phê đa phần là dân chài sau một chuyến ra khơi trở về. Thảng hoặc một vài
khách phương xa. Dưới những cây bàng sù sì cành nhánh và rơi rớt màu đêm, tiếng
cười nói của thực khách chen lẫn với mùi cà phê, mùi bánh ngọt, mùi thức ăn mang
hương vị biển cả. Những con mực trên lò than vặn vẹo cong mình vì lửa nóng.
Những con khô cá đuối nực nồng mùi “amoniac”. Mùa nầy khách uống cà phê có thêm
chiếc áo mặc trên người và đôi dép dưới chân. Mùa hè thì khác. Họ là những ngư
phủ luôn ở trần và ít khi mang dép. Hai cánh tay lực lưỡng vì kéo lưới mỗi ngày
cùng khuôn ngực nở nang cộm dưới thớ vải bạc màu bởi mồ hôi và muối. Trong khi những
bàn chân ngơ ngác vì lạnh buốt gió đêm.
Phải khó khăn lắm tôi mới được chủ quán đem ra hai cái ghế
ngồi cạnh quầy. Một ly cà phê đen cho tôi và cà phê sửa nóng cho nàng. Vài tia
nhìn dò xét ném về phía chúng tôi vì so với đám đông, chúng tôi còn quá trẻ để
có thể gia nhập dể dàng vào thế giới của họ. Một vài người khác, đón chào chúng
tôi bằng ánh mắt thân thiện hơn. Họ hút thuốc và thả khói bay mịt mùng chung
quanh. Ly cà phê nguội lạnh từ lâu nằm trước mặt. Những bình trá nóng liên tục
được đem ra. “Đó là một phần của quá khứ anh.” Tôi nói bên tai nàng để cho nàng
dạn dĩ. “Ngày xưa anh đã từng thức khuya, đi chơi đêm và ngồi tại đây.”
- Em thấy hơi ngại vì họ trông có vẽ dữ dằn quá. Nàng nói.
- Họ thô ráp nhưng không dữ dằn. Tôi nói. Cuộc đời của họ
sống trên biển quanh năm và chỉ có ghe thuyền lưới cá là bạn. Vợ con ở trên bờ.
Hạnh phúc thực sự của họ là những giờ phút nầy. Em có nhìn thấy cách họ ăn uống
không? Rất sảng khoái và cũng rất trang trọng.
- Tại sao?
- Có lẻ một phần vì họ cảm giác được sự còn mất và cái mênh
mông của cuộc đời. Dù họ không phải là những triết gia. Người ta nói “biển là
giả”. Không có gì thật trước mỗi chuyến đi. Một chiếc ghe ra khơi và trở về
ngày hôm sau với tôm cá đầy khoang. Đó là niềm vui và họ san sẻ điều đó với gia
đình. Với làng xóm. Nhưng cũng có những chuyến đi không kịp về. Đâu có ai biết
được bất trắc của trùng dương?
Hai ly cà phê đem ra trước mặt chúng tôi. Bàn bên cạnh có
người đàn ông cũng kêu một ly nhỏ. Nhưng ông đổ cà phê ra đĩa để uống...
Thời gian trôi theo những nhịp sóng xô bờ, rồi vuột ra xa.
Quán cà phê Năm Tròn cũng trôi theo cùng khôn lớn. Ngày xưa tôi mê nhìn những
bông bàng rụng trên mặt bàn bụi bậm như những kỷ niệm êm đềm rụng trên tuổi thơ
của tôi. Những chiếc ghế làm bằng những thanh sắt mảnh mai, có thể xếp lại mỗi
lúc quán gần đóng cửa. Chúng nằm im ở một góc tối, cho đến mờ sáng ngày hôm
sau, được mở ra. Tôi mê những chiếc đĩa nhỏ bằng sành có vẽ bông hoa màu mè quanh
miệng, lâu ngày đĩa bị sứt mòn, nhưng chủ quán hà tiện không chịu thay. Những
chiếc đĩa được đặt dưới đáy ly, cũng có thêm một công dụng khác là làm cho cà
phê mau nguội. Tôi không biết nơi đâu có thói quen uống cà phê bằng đĩa, nhưng
tôi biết chắc chắn thời đó, dân Vũng Tàu của tôi từng có biết bao nhiêu thực
khách uống cà phê như vậy. Nghĩa là người ta không kịp chờ cà phê nguội mà đổ
ra đĩa, sau đó đưa lên miệng uống từng ngụm. Mới đầu tôi ngạc nhiên, nhưng về
sau thì những điều như vậy trở nên quen thuộc. Ngọc hỏi tôi:
- Tại sao người ta lại phải đổ cà phê ra đĩa?
- Cho nó bớt nóng. Tôi đáp. Nhiều người vội uống mà không
muốn chờ đợi.
Qua vai nàng, vài vệt sáng từ đèn pha trên núi rọi xuống,
quét dài trên mặt biển. Những đôi tình nhân của đêm cũng vừa vượt qua chỗ chúng
tôi ngồi. Đôi mắt nàng càng nhìn càng thẳm sâu và tôi ao ướt được hôn lên đôi
hàng mi cong vút gió mùa đó. Giống như một đời chim, nàng co ro trên chỗ ngồi
của mình, nghe ngóng từng bất trắc.
Tôi cảm giác muốn chia sẻ thật tình cái giây phút ngắn ngủi
nhưng vời vợi đó, của nàng. Mùa đông ủ trong nó tiếng lòng có pha chút hơi nước
đượm mùi biển từ trùng khơi. “Em muốn về”. Nàng nói. Tôi rời tay nàng và kêu
tính tiền. Nàng trả lại cho bàn ghế chút hương thể và một vết son âm thầm trên
miệng ly.
Làm sao để nói lên được thế nào là ngắn ngủi hoặc đầy tràn
một hạnh phúc? Trong tình yêu luôn có cộng trừ và nhân chia. Nhưng sự lầm lỗi
sẽ nhấn chìm tình yêu như biển cả nhấn chìm con thuyền.
Tôi tự hứa sẽ không bao giờ trở lại sự lầm lỗi ban đầu. Tôi
không muốn kể ra đây điều tôi gây cho nàng thương tổn. Có thể một ngày nào tôi
sẽ viết xuống. Nhưng không phải là lúc này. Không phải để chuộc lại những gì đã
vuột khỏi tầm tay. Tôi viết để lòng vơi đi và nhẹ bớt gánh nặng.
Bốn mươi mấy năm trôi qua. Tôi chưa hề nghe phong phanh về
nàng. Kể từ một mùa đông nghe trở trăn đời đau nhức.
Tôi không từng trải hết một quá khứ mà trong đó tình yêu
của nàng dành cho tôi đủ đốt lên thành ngọn lửa. Nàng cháy hết mình cho tôi trong
gian phòng kín bưng trong khi đêm lả tả dấu kín gió khuya bên ngoài. Những nụ
hôn từ một bờ môi mới vừa đắn đo hôm qua trở thành cơn mưa làm khát trong nhau
từ thuở trước. Vạt áo đêm không khép ấm hai bầu ngực thơm mùi mật. Như mảnh
trăng thơ ấu bỏ quên mùa...
Những ngày như vậy
tôi biết thế nào là tình yêu. Thời gian đi qua nhanh chóng như một vạt gió thổi
chạm vào tim lúc nào tôi không biết. Hơi thở của hạnh phúc như những lời chim
hót trong vườn xanh buổi sáng mai. Cây ổi sẻ bên góc tường có trái thòng vào
tận cửa sổ.
Tháng ba ùa lên màu hoa bàng lấm tấm. Nàng nói nàng nhớ gia
đình. Nhớ nhà và muốn xa tôi. Hành trang vẫn là chiếc túi xách thoi thóp ngày
tìm đến. Tôi thấy lòng mình chia hai nửa.
Chiếc túi xách đó, hình như có một hàng dây kéo bị bung ra.
Nàng bỏ vào đó mọi thứ lỉnh kỉnh mà nàng cảm thấy tiện. Một vài thỏi son. Một
hộp thuốc cảm cúm. Một chiếc rubent màu tím giống như màu áo len của nàng. Một
ngăn phía kia cũng có dây kéo, nhưng không bị hư. Nàng bỏ kem đánh răng, bàn chải
và giấy tờ tùy thân. Tháng giêng này sẽ
đánh dấu nàng tròn mười tám tuổi.
Tôi không kịp mua cho nàng một món đồ sinh nhật. Mùa màng
cũng không kịp trở mình trên cánh chim, nên tiếng của nó cứ rót mãi một điệu cũ
buồn. Nhưng tôi tin ngày tháng cũng biết yêu và biết chờ đợi, ngay cả khi người
ta muốn quên nhau.
Tôi xách dùm nàng túi xách và đưa nàng ra đón xe. Buổi sáng
cuối tuần đường phố còn ngái ngủ. Vài tiệm ăn có bán cà phê mở cửa sớm, tôi đưa
Ngọc vào ăn sáng. Những đồng bạc tôi dự định dành dụm để trả cho câu lạc bộ
trong quân trường, bây giờ tôi bỏ ra không đắn đo. Biết đâu tôi sẽ không còn
dịp để làm một điều như vậy?
Có một thời nàng thích làm nũng với tôi. Dường như để đo
lường tình yêu của tôi dành cho nàng. Nhưng có một lần tôi không để ý. Và như
vậy nàng để trong lòng điều đó mà không nói ra. Tôi là đứa con trai miền Nam
trong khi nàng là con gái Bắc. Tôi sinh ra ở biển còn nàng lớn lên ở núi rừng.
Rừng và biển gần nhau nhưng ít khi dung hòa với nhau? Chỉ có một điều giống
nhau là ngay trong hoàn cảnh này, chúng tôi vẫn không nói lên được một lời chia
tay thật tình.
Phải mất bao nhiêu thời gian. Bao nhiêu năm tháng tôi mới
bình tâm để nhìn lui lại bài học tan vỡ mà tôi là người tạo ra?
Nàng trở về căn phòng nhỏ của nàng, tại Blao. Đó là khoảng
cuối năm 1970, đầu năm 1971. Thế giới của nàng đầy những giấc mơ cùng những
điều bí mật đem theo từ một tình yêu. Còn tôi, giờ đây trên tường vôi vàng úa
như màu cỏ thu trong căn phòng ngủ, nàng để quên lại bức ảnh bán thân của nàng.
(nàng đã quên hay cố tình bỏ lại?) Dưới khuôn mặt mà nàng nói với tôi là chụp
năm mười sáu tuổi, là tên của nàng do tôi viết xuống bằng viết màu. Cái tên nằm
lại, nhưng người đã xa.
Thật khó lòng để tôi nhớ lại ngày tháng có nàng mà không
vấp phải sự buồn rầu. Nỗi buồn phút chốc mênh mông và làm chật chội căn phòng,
trong khi tôi vụng về thừa rộng. Sợi tóc nàng sót lại trên gối, giống như một
kỷ niệm màu đen mảnh mai. Tôi bỏ ra ngoài, ra biển. Chiều xuống mịt mùng trên góc
phố nhỏ quen thuộc như đường chỉ tay. Hàng cây bàng xanh lá nhìn xuống ghế đá
như đợi ngày nàng trở lại. Không có ai ngồi đợi ai trong khi tiếng chuông rung
lên chiều chủ nhật.
Đêm lao xao tiếng cười nói tại quán cà phê Năm Tròn. Ánh
điện trong vắt dội xuống như màu mắt nàng đêm nào rối bời. Chiếc lá bàng rụng
từ lúc nào vừa lật mình vì gió. Tiếng hát như lời nấc nghẹn giữa môi từ chiếc
máy hát, đôi lúc nghe rõ, đôi lúc bị gió tạt không nghe. Vài chiếc xe thoáng
qua chở đêm về cho phố thị. Tôi nghe trên môi run tiếng đời đi vội vã.
Những cơn gió đêm thổi về tại đây, bên ngoài ngôi nhà đường
Heatherglen. Ở Đàlạt, hay Bảo Lộc mùa nầy chắc cũng không khác gì. Không biết
nàng vui hơn hay buồn hơn. Nếu tính từ năm mà chúng tôi chia tay, thì bây giờ
nàng đã 56 tuổi.
39 năm trôi qua. Tình yêu giống như một chiếc kẹo. Khi ngọt
ngào, khi chua chát. Khi êm ái trong miệng. Khi cay đắng trên môi. Chưa một lần
tôi trở lại nơi nàng sống để thăm lại, vì sau nửa năm rời xa tôi nàng có chồng.
Trong lòng tôi mùa đông năm đó lạnh xiết bao. Cái nắng của biển và hơi thở của
trùng khơi không chạm được trái tim tôi dù mỗi ngày gió vẫn lồng lộng bay qua
sân Vũ Đình Trường. Tôi xin thuyên chuyển khỏi Trường Truyền Tin. Đại tá Vũ Duy
Tạo kêu tôi lên văn phòng xài xể và đe dọa. Tôi không đổi ý. Mẹ tôi không ngạc
nhiên. Bà nuôi chúng tôi từ lúc còn ẫm trên tay đến khi trưởng thành, bà biết
tình tình của từng đứa. Tôi là một đứa con trai cực đoan và cứng đầu nhứt trong
gia đình. Bà thường kể về tôi, với mấy người hàng xóm: “Nó là thằng mỗi lần đạp
cứt là chặt chưn...”
Tôi chỉ là một gả con trai miền Nam. Tháng ba rét nàng Bân
tôi bày đặt mặc áo len ra đường. Vào quán cà phê Thuận thấy quê mùa vội cởi ra.
Chiếc áo giống như một sự bồi hồi không tên gọi. Nó nằm hờ hững trên lưng ghế.
Đà Lạt hư ảo như vậy sao? Những tình yêu mang màu sắc của sương mù và mưa bụi
cũng mờ nhạt vậy sao?
Tại sao trong khi tình yêu của người ngày dành cho người
kia đã tan vở nhưng hình bóng về nhau vẫn không lụi tắt. Mà âm ỉ như tro than?
Có những điều tầm thường tưởng chừng như ngủ yên, bổng một lúc nào đó cựa mình
thức dậy. Như chiếc túi xách bị hư dây kéo của nàng buổi sáng ngày ra bến xe.
Nó mở ra như một vết thương lòng ngào ngạt. Nó sẽ không thể khép lại để trang
trải rạch ròi một quá khứ. Tôi cũng nhớ, số tiền mà tôi định dùng để trả cho
câu lạc bộ tháng đó, ngoài trừ tiền ăn sáng chút đỉnh, số còn lại tôi lén bỏ
vào ngăn kéo kia. Tôi không nói cho nàng biết. Mãi đến khi nàng ngồi ngay ngắn
trên xe đò và xe sắp lăn bánh tôi mới nói.
Mưới bảy tuổi Ngọc yêu tôi mù quáng. Nàng bỏ những ngày
tháng thơ mộng học trò để trôi về những bất trắc. Chuyến xe đò Minh Trung của
chặng đường Đà Lạt- Sàigòn và Sàigòn- Vũng Tàu đã qua bao nhiêu dằn xốc cũng
như tâm hồn nàng đang bị dằn xốc, phân vân? Những cột mốc bên đường ghi dấu
từng lầm lỡ hay từng lớn khôn của một người con gái?
Ngày ấy, tình yêu chúng tôi giống như cánh đồng lúa chỉ
biết xanh chưa vàng háp mùa gặt. Nàng và tôi chỉ biết yêu mà không hình dung
đến tương lai. Không mường tượng đến những giông tố trong lòng biển.
Căn phòng củ chứa đựng sự thân thiết của chúng tôi dù sau
này tôi không còn ở đó, mẹ tôi vẫn để không. Tôi để một chiếc chìa khóa cửa nằm
dưới chậu bông kiếng, hi vọng một hôm nào đó nàng trở lại, sẽ có cửa để vào,
không cần phải chờ tôi khi tôi còn trong quân trường. Chiếc chìa khóa đó không
có dịp để tra vào trong ổ khóa và xoay theo chiều kim đồng hồ để mở. Nó cũng
không có dịp trở trăn để nghe hơi ấm bàn tay của ai run vì xúc động. Cùng gió
đêm ùa qua lòng hối hả. Cho đến ngày mất nước.
(Tôi rời trường Truyền Tin và đổi ra Nha Trang. Sau đó, có
một người bạn ở Đà Lạt muốn đổi về Ba Ngòi để gần gia đình, đã hoán chuyển với
tôi. Tôi trở lại làm việc với Trung Tâm Truyền Tin Đà Lạt lần thứ nhì)
Khó lòng để tôi có thể sống bình an như ngày tôi chưa gặp
nàng. Cũng khó lòng để phân tích sư tan vở đến từ đâu và làm sao để đi qua
những sầu đạo mà không vấp phải sự đau khổ.
Tôi chỉ biết rằng cuộc đời này còn thiếu rất nhiều thứ,
trong đó có nàng. Một cô gái nhỏ nhoi và một tấm lòng bình dị. Nhưng tình yêu
của nàng dành cho tôi lại thiết tha và lẫm liệt.
Phải mất bao nhiêu ngày tháng để tôi bình tâm và quên lắng
những nhức nhối. Lúc xe rời bánh tại bến xe Vũng Tàu, nàng hôn vội trên trán
tôi (hay tôi cúi xuống hôn nàng?) và nói: “Mai mốt em sẽ trở ra”. Tôi nói với
nàng là tôi sẽ đợi được, dù thời gian có dài bao lâu. Dù nàng có trở lại hay
không, khi tôi trèo xuống xe, tôi vẫn nghe thấy vạt gió buồn thổi ngược đường
tôi đi. Lời hứa của nàng vuốt ve tôi từng đêm, trong giấc ngủ và cả trong giấc
mơ.
Tôi thấy mình bay trong sân trường học của nàng. Những cây
mận đang mùa ra trái. Những cây đào sum suê trên đường ra Trại Hầm. Tôi thấy
chuyến xe đêm chở tôi qua một trại lính, có giàn ăng teng trước sân cờ giống
như đơn vị của tôi. Và cuối cùng tôi thấy nàng thản nhiên rời khỏi tôi, quẹo
vào một chốn nào đó, đầy sương. Tiếng cười vu vơ như một đài hoa rụng xuống.
Tiếng cười nhỏ nhoi trong giấc mơ ngắn ngủn, nhưng làm
thành nỗi nhớ dài mênh mông.
Đêm Đà Lạt nghèn nghẹn như tiếng khóc vì cơn mưa bay dài
qua phố. Có một bông hồng nở nụ buổi sáng nhưng rồi sẽ bị vùi vập không ngờ.
Góc phố kia, nơi mà tôi và nàng từng đi về với nhau vẫn còn cây hồng đào cô
độc. Nó như một vật chứng, hay một tình yêu không tàn phai trong lòng những kẻ
yêu nhau- vì đã hết thời nở hoa rồi mà vẫn còn phơi phới thủy chung một màu
hồng.
“Có những ngọn nến không cần phải thắp vì ánh mắt em đã là
ngọn lửa”. Tôi nói với nàng như vậy trong một đêm mà nhà đèn cúp điện. Khung
trời mông lung không có một vì sao để nhấp nháy một tinh cầu. Không ai trong
chúng tôi hình dung ra một cuộc tình phờ phạc và tưởng tượng sẽ xa nhau một
ngày nào. Gió trải rét mướt lên đời nhau, và đêm nhuộm đen mắt nàng, giống như
cà phê buổi chiều. Những nỗi buồn dọc ngang trong phòng, trên chăn gối.
Những đêm dịu dàng như vậy, giá mà kéo dài được suốt đời.
Nhưng mọi thứ trở thành cổ tích. Những vòng bánh xe lăn
ngược đường về Đà Lạt, qua Định Quán, Phương Lâm làm đậm đặc nụ hôn đầu. Bao
nhiêu năm rồi, màu son đó vẫn như còn trên vai áo, trong khi tiếng cười ai kia
đã rớt xuống, bên đường...
Ở phía bên này năm tháng, tôi chọn cho mình một hướng đi.
Người phụ nữ, đồng thời là người bạn đời sau đó, đã dừng lại nơi một khúc
quành. Khi những người lính phương bắc vào chiếm miền Nam, tôi không chịu nỗi
những ngày tháng lang thang và lập gia đình với một người con gái nhỏ hơn tôi
một tuổi. Nàng là con gái thứ trong một gia đình không có nhiều anh em. Và mẹ
của nàng sống một mình lúc bà bốn mươi tuổi. Lập gia đình với nàng một năm, bà
mẹ vợ tôi bị mất vì đau tim, hay vì trầm cảm, thiếu thốn. Có thể là cả hai
thứ.
Sang định cư Hoa Kỳ chưa đầy mười năm, tôi mất luôn nàng. Cơn
bệnh từ chứng đau tim di truyền, cộng thêm cao huyết áp, đã khiến nàng vĩnh
viễn rời tôi. Hai mươi năm sống chung, đồng sàng nhưng dị mộng. Nàng thực tế,
tôi mơ hồ. Nàng sùng bái những điều gì làm nên tiện nghi vật chất và coi đó là
khuôn mẫu của đời sống. Còn tôi, khi những cơn mưa trở về nơi sân vườn sau,
cũng là lúc ký ức tôi mịt mùng những hoài niệm.
Tôi đi qua những ngày mùa đông đầy mưa với bàn chân không
thể bước ra ngoài nỗi nhớ. Và tâm hồn dù buồn đau như sông lạnh nhưng không thể
chạm đến biển đời bao la.
Người ta nói, tình yêu không biết lội và sẽ chết đuối giữa
biển khơi. Cớ sao, tôi vẫn nhớ mãi một vòng môi làm ấm lạnh một đêm dài?