Monday, February 20, 2012

người đi tìm quá khứ

THƯ VIẾT TỪ ĐƯỜNG HEATHERGLEN


1.

Ngày tôi 20 tuổi, tôi chưa có một tình yêu để đi xuống cuộc đời. Tôi còn quá trẻ để cảm nhận hết nổi đam mê khi trái tim chưa đụng đến đau buồn.

Mười sáu tuổi nàng không nói với tôi lời yêu đương cũng như tôi chưa biết lời tỏ tình thì tôi đã vào lính. Mùa hè thở hơi nóng lên những cuống lá bàng làm cong queo con sâu già mệt mõi. Thành phố vừa tiềm ẩn hơi hám của chiến tranh nên thành phố cũng đang khao khát hạnh phúc. Những đứa con trai chưa kịp đánh rơi thanh xuân mình trong cái thành phố biển mênh mông- chưa từng có nụ hôn để làm cháy bỏng mùa hè- đã thấy mình đối diện với quân trường.

Từng cơn sóng sẽ qua đây sáng mai. Tôi dấu đời mình không đủ kín như con dã tràng cô đơn chưa một lần thấy biển. Những ngưòi tình chia tay về đâu? Khi đêm trống hoác những ngả tư bồi hồi.

Tôi xa Vũng Tàu và mùa màng rung lên từng vạt gió đậm mùi muối mặn. Có một người con gái mười sáu tuổi vừa lớn khôn quay lưng lại tình đầu. Con đường Quang Trung chạy vòng ngơ ngác. Ngọn núi nhỏ có vệt đèn pha quét dài trên biển đen như một tiếng thơ lạc vần. Có những ngườì từng nói lời yêu say đắm rồi một ngày nào cũng gối đầu vào những phôi pha. Huống chi Giang là một cô gái Sàigòn mang tấm lòng phù hư của con thuyền không chịu về với bến.

Nàng không có cả một câu nói để làm ấm lòng dù bàn tay nàng từng ấm trong tay tôi. Chỉ có tiếng cười trong veo như tiếng lục lạc rớt xuống đường. Dù buồn, tôi vẫn còn sáng suốt để không chờ đợi nàng ban cho tôi một lời hứa. Cô con gái nhà giàu ở Khánh Hội khó lòng nói lên một điều quá sức, như tiếng mưa òa vỡ mái hiên trong một ngày khô hạn.

Tôi đạp xe trở về. Giang vừa khuất lánh sau cánh cửa dẫn vào khách sạn nơi có gia đình nàng đang trú ngụ. Sáng mai nàng sẽ trở về Sàigòn.

Chiếc xe đạp vừa mới tuột sên. Tôi dựng nó bên lề đường. Ngôi trường suốt một mùa thơ ấu có những lớp học thao thức như đứa con trai không chịu về nhà đêm nay. Hàng cây loa kèn che chắn một góc sân nhà Thờ Lớn, có tiếng cựa mình của một cánh dơi. Những ngôi sao trên đầu về đâu giữa một thiên hà cũ mòn nhưng mới mẻ những điều huyễn hoặc?

“những vì sao nhỏ lệ suốt đêm thâu

gió sẽ bảo tình yêu nào cũng đẹp…”

Tình yêu nào cũng đẹp một khi chúng ta ủ trong nó những ký ức. Dù biết bao sỏi đá trên đường ghi dấu những bước chân đi qua đời nhau. Tình yêu của tôi với  nàng cũng ngậm những hơi thở đau đớn từ một mùa thi. Những xác hoa phượng làm đỏ một sân trường. Cây điệp già không biết có từ bao giờ cũng vươn cành nhánh xanh um nhìn xuống vạt đường khuya bất lực.

2.

Nơi tôi ở đang nóng dữ dội. Thời tiết trên truyền hình cho biết có ngày vượt quá 100 độ.

Một người bạn vừa bên Pháp về cho hay bên đó cũng nóng ghê gớm. Tôi hình dung ra những vĩa hè bốc khói và không biết người dân Parisiens có còn ngồi uống cà phê nơi những quán lộ thiên bên đường, trên những vuông gạch khô ráp mang phong cách Thổ Nhỉ Kỳ. Trong khi tiếng nhạc từ chiếc máy phát thanh gắn chìm trong tường đang ca ngợi mùa thu? Tôi không nghĩ Paris sẽ giống như thành phố Austin. Ði trên đường phố Paris bây giờ mà mồ hôi ra dã dượi. (Paris có gì lạ không em? Mai anh về giữa bến sông Seine ?) …

Chưa một lần tôi đến Paris, để nhìn thấy tận mắt thành phố mơ ước khi tôi còn cắp sách đến trường. Ngày đó tôi chọn ban A, tức là chọn Pháp Văn làm sinh ngữ chính. Thầy dạy Pháp Văn đầu tiên là thầy Nguyễn Hồng Sanh. Được chừng một năm là thầy Trần Văn Châu về thay. Nghe nói Thầy Châu có thời gian sống bên Pháp (?) hay từng học bên Pháp, tôi không nhớ rõ. Dáng điệu thầy lè phè như một ông Tây chính hiệu. Từ thầy Châu, tôi được biết Tâm Hồn Cao Thượng (Le Grand Coeur) của De Amicis. Đến Le Livre de mon Ami (My Friend's Book) được viết năm 1885 của Anatole France.

Đang mùa nghỉ hè. Còn vài tháng nữa mới tựu trường.

Trong quyễn hồi ức viết về tuổi thơ của Anatole France có đoạn văn tả ngày đầu tiên đến trường của một em nhỏ. Thầy Châu đọc cho cả lớp nghe và sau đó dịch ra tiếng Việt. Tôi xin viết lại theo trí nhớ:

Tôi sắp nói cho các bạn nghe điều mà tôi trông thấy mỗi buổi sáng, khi đi ngang qua vườn Lục Xâm Bảo trong những ngày đầu tháng mười. Lá vàng rơi từng chiếc trên đôi vai trắng của các pho tượng trong vườn. Trời có vẽ hơi buồn bã nhưng chưa bao giờ đẹp như vậy…”

Con người thật lạ. Dù qua bao nhiêu tháng năm, vẫn không quên được quá khứ. Nơi buồn vui đan vào nhau như một giấc mơ qua nhanh không ngờ. Có những câu chuyện không đầu không đuôi nhưng đủ làm thành đóm lửa rực cháy suốt đời. Và đàng sau mỗi giấc mơ là những môi run, những mắt khép.

Chưa một lần tôi đến Paris. Nên những hình ảnh rực rỡ của Paris hiện ra trên computer như một món quà quý giá. Một người bạn học chung trường Vũng Tàu vừa gởi cho tôi 2 PPS. Một ghi lại Paris, cùng ”với những vần thơ”. Có Tháp Eiffel, có Khải Hoàn Môn kiêu hảnh. Có sông Seine ướt mèm nỗi nhớ, cúi mình theo những chuyến xe qua. Những vì sao trên cầu Mirabeau. Cầu Neuf. Có ga Lyon chiều vàng. Khu Terminé lạnh căm ánh đèn lướt thướt. Sao giống như những ngấn lệ giờ chia tay. Phố Montmartre cùng những cơn mưa phùn. Những quán cà phê, mà mỗi góc đường là mỗi cơn say nhộn nhịp.

Một PPS khác nói về Đà lạt và lời ghi chú: ”PNY có vẽ nặng tình với Đà Lạt, gửi PNY vài hình ảnh này, có lẽ sẽ xoa dịu được phần nào nỗi nhớ nhung…”

Nỗi nhớ có xoa diụ hay không, tôi không chắc. Nhưng tôi thấy buồn vì tâm hồn vừa ngổn ngang một quá khứ. Những màu hoa đuổi theo nhau về đâu khi tình yêu đích thực bị mất dấu bên đời?

Khi tôi còn trong quân ngũ, Đàlạt như một cô gái chưa từng mở lòng cho một tình yêu. Như cánh buồm chưa từng căng đợi gió. Đàlạt ngày đó rất im lặng mà đầy hương sắc làm sao. Bây giờ, những cảnh trí hiện ra như ngày nào nhưng hơi thở dường như đã khác. Cành mạc lan vẫn yên ả một màu đời, nhưng mùi thơm đã theo tiếng buồn đi xa…

3.

            Mùa này hiếm hoi những cơn mưa. Trên đường về từ sở làm cây hồng đào hiện diện như một người tình thủy chung. Sắp qua hết một mùa hè mà cây vẫn ra hoa. Màu hoa rưng rức ôm nỗi buồn đuổi theo những vòng bánh xe.

Bây giờ tháng sáu.

Sân trường không ai

Anh về nhen lửa

Soi ân tình dài…

Mùa này hiếm hoi những chuyến buýt màu vàng khô. Vì học trò không còn đến trường. Con gái tôi cũng đã qua cái thời trường lớp. Nên trong trái tim nó chắc không còn bao nhiêu xúc động về một ngày tựu trường. Trong tâm hồn nó cũng không còn dành bao nhiêu chỗ chứa một ký ức thơ dại, khi tay nó rời khỏi tay tôi để trèo lên xe buýt. Chắc nó không còn nhớ (hay nhớ rất ít) hình ảnh ba nó đứng dưới trạm xe nhìn lên đứa con gái thân yêu đi qua những hàng ghế trống. Và cuối cùng lọt thỏm giữa những đứa bé khác cùng tuổi, nhưng khác màu da.

Mỗi đứa trẻ khi vào đời bằng mỗi cách khác nhau. Nhưng cảm giác về ngày đầu tiên đến trường đều sâu đậm giống nhau.

“Hàng năm cứ vào cuối thu, khi lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỹ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được cái cảm giác trong sáng ấy nẩy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mĩm cười giữa bầu trời quang đãng...” (Tôi đi học/ Thanh Tịnh).



Mùa thu của những thập niên 1950. Tôi đến trường với sự hồi hộp pha lẫn náo nức. Ði bên cạnh là Mẹ tôi. Ba tôi mất sớm nên tôi không có dịp đi cùng ông đến trường để trình diện với thầy cô. Mẹ tôi đưa tôi đến cửa lớp, gởi tôi cho thầy giáo lớp năm- tức lớp 1 bây giờ- sau khi dặn dò tôi vài điều và bảo tôi đừng khóc. Bà còn phải về cho kịp có mặt buổi chợ sớm mai để lo gạo cho mấy chị em tôi.

Trường có ba lớp: lớp Năm- lớp Tư- và lớp Ba. Học hết lớp Ba muốn lên lớp Nhì phải sang học ở trường khác. Trường nằm khiêm tốn trong một góc sân đá banh, mà sau nầy được đặt tên Sân Vận Ðộng Lam Sơn.

Thầy dạy tôi là thầy Quyến. Ông người miền Nam khoảng gần 35 tuổi và sống kỳ cựu ở Vũng Tàu. Mỗi một lớp có khoảng chừng 20 đứa. Có những chiếc bàn dài gắn liền với băng ghế ngồi đã có vài vết mực lem luốt từ một mùa học trước. Những chiếc bàn đi qua đời tôi sao đầy những cảm xúc? Mỗi đứa chiếm một vị trí ở bàn do thầy Quyến chỉ định. Tôi và hai đứa cùng nhỏ con giống nhau ngồi hàng trên cùng, cạnh chiếc bàn làm việc của thầy. Trên đó những chồng sổ điểm danh và sổ điểm được xếp ngay ngắn. Những đứa học trò lớn hơn ngồi ở sau. Tôi nhìn trân trối vào tấm bảng đen mới được sơn lại và những viên phấn nằm ngay ngắn trong hộp. Một dòng chữ được viết trên tường bằng sơn đỏ: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Thầy bảo chúng tôi bỏ tập vở mới vào trong hộc bàn, chỉ để lại một cuốn tập và một cây viết chì chưa chuốt. Ông bảo chúng tôi ngồi nghiêm chỉnh trong vị trí của mình và cất tiếng đọc tên từng đứa. Ông hỏi cặn kẽ về cái họ và về chữ lót. Mỗi cái tên được ông viết xuống sổ cẩn thận bằng một cây viết lá tre chấm mực màu xanh. Bình mực đỏ kế bên chỉ dùng để chấm điểm. Ông bắt đầu nói về những điều mà chúng tôi sẽ học trong năm đó. Vì là buổi học đầu tiên nên ông dạy chúng tôi tự chăm sóc tập vở của mình, như bao bìa một quyển tập và dán lên trên đó một cái nhản, trong đó có ghi tên họ, lớp học và năm học, để khỏi lẫn lộn với tập của đứa khác.

Hồi đó tập học có hai loại - loại 50 trang và loại 100 trang. Những trang được cắt góc tròn trịa nói lên tính chất thẫm mỹ của nó và đắt tiền hơn những tập không cắt góc. Nó sẽ giúp cho những trang giấy không bị cong lại vì bàn tay cẩu thả của học trò. Dĩ nhiên những đứa con nhà giàu thường có nhiều quyển 100 trang có cắt bìa hơn. Bìa tập cũng có in hình vẽ khác nhau và giá trị tùy theo số trang nhiều ít. Có hai hình vẽ quen thuộc lúc đó là hình người lái xích lô đạp và hình ba cô gái tượng trưng cho ba miền, do hoạ sĩ Lê Trung vẽ. Ở bìa sau có in bản cửu chương.

Thầy dạy chúng tôi gắn ngòi viết lá tre vào cán viết và giữ viết trong bàn tay như thế nào. Thầy cũng dạy chúng tôi chuốt viết chì. Nhiều đứa không làm được như vậy- trong đó có tôi- thầy bắt mấy đứa lớn làm giùm. Có những tờ giấy chậm màu hồng trong đó có in những hình vẽ hoa mỹ, liên quan đến trường lớp. Có một hình mà tôi còn nhớ mãi là hình một chiếc trống và một đứa bé đang trốn học trên cây.



Những chiếc trống ngày trước không còn hiện diện vì không còn thợ thủ công để làm ra. Chúng đã lùi sâu vào nơi chốn của những ngôi đình và những lễ lạc. Âm thanh của chúng lúc đó mang một giá trị khác trong một đời sống khác. Như hơi thở của người xưa lẫm liệt thổi qua những dâu bể thăng trầm.

Còn bây giờ, người ta thay vào vị trí của chiếc trống trường bằng những chiếc kẻng. Ðó là mảnh sắt lớn được lấy từ một vỏ đạn hay một món đồ phế liệu nào đó, treo lên cao dưới một cành cây hay một gờ mái. Mỗi buổi sáng sẽ được một đứa học trò trưởng lớp đánh lên để báo hiệu giờ vào lớp. Chiếc kẻng không bao giờ mòn, dù tuổi học sinh chúng tôi mỗi ngày mỗi lớn. Và thơ ấu sẽ lần lượt đi qua dưới những âm vọng trìu mến như vậy cho đến khi bước xuống cuộc đời.

Bên hông lớp của tôi có một cây me keo không biết có từ lúc nào. Nhánh của nó có gai và làm nhức nhối mấy đầu ngón tay nếu vô tình đụng tới.

Cây me còn là nơi trú ngụ những con quít có cánh màu xanh lá cây. Chúng hiện diện suốt một mùa học và bay theo tuổi thơ chúng tôi cùng với tiếng giảng bài của thầy mỗi buổi sáng. Tiếng đập cánh của nó nghe buồn khô như tiếng viên phấn miết lên trên mặt bảng.

Lớp học đầu đời của tôi giản đơn như vậy. Giản đơn như dòng chữ Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn. Nhưng để lại trong hồn tôi những dấu ấn. Giống như màu mực đỏ ghi điểm của thầy tôi trên trang giấy trắng. Mỗi đồ vật, mỗi ngăn tập trên bàn, đều ủ chật hơi thở của chúng tôi. Những bình mực khô cạn nằm lăn lóc ở một góc sân, đã bao mùa mưa nắng, vẫn còn đọng lại những giọt mực thời thơ ấu. Nó không chỉ đơn thuần là màu mực xanh hay đỏ. Nhưng có thể là những dòng máu xuôi ngược trong buồng tim trẻ thơ của tôi. Chúng biến đời tôi trở nên xanh hơn hay úa bầm tuyệt vọng.

4.

Nhiều năm trôi qua. Những nhịp đời đi vội vã. Đứa con trai năm tuổi ngày đó bây giờ đã 65 tuổi. Những chàng trai, những cô gái vào đời. Mọi bước chân bước qua nhung lụa hay đi trên bão tố, đều giống nhau. Có khác chăng là cảm xúc khi còn ấu thơ và mỗi giấc mơ hồn nhiên hay bầm vập.

Như một người đi tìm mua quá khứ, nên tôi luôn trân trọng với những gì làm nên qua khứ. Tôi ao ước được sống lại một giấc mơ cũ, dù đơn điệu và thiếu thốn hào quang, nhưng tỏa sáng hạnh phúc.

Khu sân vận động Lam Sơn bây giờ khang trang hơn và những vạt cỏ cũng mọc chồng lên nhau cùng ngày tháng. (Ngôi trường không còn từ lâu và thay vào đó là một gian phòng dùng làm nơi sinh hoạt của cán bộ thể dục thể thao. Hay một cái tên gì đại khái giống như vậy. Một thời được dùng làm nhà tắm hơi). Cây me keo dĩ nhiên cũng chịu chung một số phận cùng với ngôi trường và những con quít cánh xanh hết còn chỗ cư ngụ. Nó không thể “cư trú lì” một khi đất đai đã chật hẹp một cuộc đổi đời.

            Năm tôi học Trung Học, chúng tôi còn đá banh trên sân vận động này. Ngọn Núi Lớn nằm ôm một con đường vòng có tên là đường Thành Thái. Và buổi chiều sẽ trở nên êm ả hơn khi nắng gần tắt ngoài biển. Cuối con đường vòng là đường Thành Thái, nơi có nhà của người con gái mang tên Nguyễn Thị Phụng. Cô gái từng để cho nhiều cây si mọc lên và một thời nổi tiếng trong các buổi văn nghệ của trường.

Tôi không biết Phụng vì khi nhan sắc nàng đang nở rộ cũng là lúc tôi vào lính. Nhưng tôi biết anh em Ðồng Văn Minh, Đồng Văn Đức. Nghe nói Đồng Văn Minh từng có thời ngưỡng mộ Nguyễn Thị Phụng. (Ðồng Văn Minh sau này đi Nhảy Dù và mang lon Đại Úy).

Một buổi chiều đang đá banh, bỗng có một đứa chỉ lên trên Núi Lớn và chúng tôi nhìn thấy ai đã treo trên đó lá cờ của “phía bên kia”. Cuộc vui nửa chừng khựng lại và mỗi chúng tôi đều cùng ý thức được rằng chiến tranh không phải là một trò chơi riêng biệt ở thôn quê hay những vùng xôi đậu. Mà chiến tranh đang hiện diện khắp nơi, trong thành phố. Hình ảnh lá cờ nhá nhem trong một buổi chiều thoi thóp nắng như một thách đố mạnh mẽ tương lai chúng tôi. Không phải chỉ có sách vở học đường vẽ ra cho chúng tôi cái giá trị của đời sống phía này không thôi, mà còn có những điều khác, thuộc về hướng khác, không nằm trong quy luật. Như truyền đơn, như những lời rỉ tai thầm thì và những tiếng nổ vu vơ nửa đêm về sáng từ một thôn ấp. Và chúng tôi phải chọn lựa một trong hai giá trị đó, không thể tránh né.

Những đứa bạn cùng tuổi với nhau cũng vậy. Chúng tiếp nối nhau vắng mặt trong lớp sau một cuộc bãi trường hay giữa niên khóa. Hỏi thăm gia đình thì được biết tụi nó đã ghi tên nhập ngũ vào một binh chủng nào đó. Vài đứa con gia đình giàu có, được Bộ Giáo Dục cho du học nước ngoài. Tất cả đều chia tay âm thầm không một lời từ giã. Cũng không có một ly chè bánh lọt với người yêu nơi sân trường. Tình yêu học trò phút chốc bị phá sản và con đường nào cuối cùng cũng dẫn đến Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Đồng Đế với Quang Trung. Hoặc sang trọng hơn đi về hướng quân trường Ðà Lạt, Thủ Đức.

5.

Dưới những hàng cây chật kín cành lá màu xanh, những chú ve sầu đang cất tiếng.

“Ve ơi, hát gì điệu nhạc chia ly, khóc người biền biệt sơn khê, cố nhân ơi bao giờ trở về…” (trường cũ tình xưa)

Những con ve báo hiệu một mùa hè và những bài hát như vậy gợi lên hình ảnh buồn bã làm sao. Tôi từng đi qua những khung cửa chật kín một thời hoa niên, trong khi màu hoa đỏ rưng rưng bên đường như những vệt máu. Ngày đó, tôi không hình dung tại sao “màu hoa phượng thắm như máu con tim” như trong lời nhạc của Thanh Sơn. Những cánh hoa thơ mộng nhưng chở chuyên ngần ấy những đau khổ. Mãi sau này khi có tình yêu tôi mới biết.

Những gã học trò mang trong tim những nhịp đập hối hả bỗng một hôm thấy lòng chùng xuống vì những âm vọng, những màu sắc mang mầm mống biệt ly. Họ đi vào đời sau khi chia tay với bạn bè, trường lớp. Có bao nhiêu người thản nhiên bước xuống những tam cấp phủ đầy xác phượng và bỏ ngoài tai những âm thanh ồn ào nhưng vô hại của loại côn trùng kia? Chắc không có là bao.

Những con đường buồn mới vừa rát bỏng màu nắng hạ bỗng chiều nay vọng xuống tiếng ve. Thành phố tôi cư ngụ rất ít mùa đông và rất ít tuyết đổ trắng trên mái nhà. Có những dòng sông cũng quên chảy qua những mong nhớ. Hôm nay có hàng triệu con ve sầu từng ngủ yên dưới lòng đất và những lá khô bỗng nhiên thức giấc.

Có một thống kê trên trang mạng mang tên LiveScience.com nói rằng những chú ve sầu đã khởi sự ngoi lên khỏi mặt đất trên khắp miền Nam nước Mỹ sau một thời gian dài 13 năm. Chúng ca hát và sinh sản suốt một mùa hè. Rồi chúng sẽ chết và  trứng của chúng sẽ nở ra. Những con nhộng từ những trứng đó sẽ tìm cách chui xuống mặt đất, tự bám vào các rễ cây và phát triển. Mười ba năm sau tính từ bây giờ, thế hệ kế tiếp sẽ trồi lên. Tại sao 13 năm mà không phải là con số nào khác? Khoa học chưa tìm ra giải thích thỏa đáng.

Những cuộc đời trên mặt đất và những cuộc tình tồn tại bao lâu, khi tiếng gõ của thời gian ngoài cửa? Giữa hai bờ mộng thực, bao niềm vui nỗi buồn quấn quit xô đuỗi nhau như những nốt nhạc trên dòng nhạc đời, mà những xuân son vừa trở thành những dấu lặng?

Những nụ hoa nở đẹp một góc phố cũng là quà tặng gởi đến từ thiên nhiên. Mùa thu và chiếc lá rơi sáng hôm qua nơi sân nhà hàng xóm mang một vẽ lãng mạng pha chút buồn rầu. Mọi thứ, đều trộn lẫn vào nhau như tấm phông của một vở kịch đời. Trong đó, tình yêu đôi khi có mặt. Ðể lên tiếng với chúng ta về một hạnh phúc không thể pha chế bằng một nguyên liệu nào khác, ngoại trừ sự đau khổ.

            Có bao nhiêu tình yêu được trang trải bằng nỗi đau khổ. Ðể cho những bờ môi tiết trinh cúi xuống hôn lên những thân phận cuộc đời...?

Saturday, February 18, 2012

long lanh màu đời

THƯ VIẾT TỪ ĐƯỜNG HEATHERGLEN

Tặng Trương Thu Thủy và Trương Vĩnh Thới




1.

Những cơn mưa phùn sẽ không tới kịp trong ngày hôm nay, để làm tươi mát những con đường. Cái nắng đang chuyển mình chói chan để chạy đuổi theo một mùa hè mang đầy biến động. Chuyện về chiếc cầu đã gẫy trên dòng sông Mississippi, bắt ngang qua thành phố Minneapolis, tiểu bang Minnesota đã làm rung chuyển nước Mỹ và soi mòn niềm tin về hệ thống giao thông ưu việt của Hoa Kỳ. Thiên tai và biến động là những bài học quan trọng mà cuộc đời này có thể nhận biết được, trong đó thông điệp về sự già nua và lão hóa cũng được gởi đến mọi thể chế chính trị, mọi thời đại.

Thế giới luôn chuyển mình và những giá trị hiển nhiên của đời sống cũng thay đổi theo. Mới đây tôi đọc tin tức trên báo thấy tòa nhà cao nhất thế giới có tên là Burj Dubai đă được xây dựng và sẽ hoàn thành vào năm 2008. Dubai là một nước nhỏ bé trong Liên Hiệp Các Tiểu Vương Quốc Á Rập (UEA) thuộc vùng vịnh Ba Tư. Cao ốc có chiều cao 1,601 feet (512.1 m) tính đến năm 2007. Nhưng các nhà phát triển tiết lộ rằng đến cuối cùng thì cao ốc có thể cao đến 2,275 feet, với hơn 160 tầng. Kỷ lục cũ thuộc về cao ốc Sears Tower, tại Chicago, cao 1,451 feet, gồm 110 tầng.

Ðứng bên cạnh những tòa nhà nói trên thì Empire State Building tại New York (1,250 feet) chỉ là một chú bé khiêm tốn.

Dù sao, khi chạy xe trên đoạn đường cao tốc mỗi sáng sớm tôi vẫn thấy sự thanh thản trong lòng. Con đường 45 South nối liền Loop 1 để về Hutto có một lúc nào đó phải ngang qua trạm đóng tiền. Ðây là đoạn cầu mới vừa hoàn thành cách đây vài tháng, nối liền một quận lỵ heo hút miền đông của Austin đến tận miền tây sầm uất là phi trường Bergtrom. Con đường đang có chiều hướng phát triển và có khả năng trở thành một trong những con đường huyết mạch về kinh tế trong tương lai.

Tôi chạy xe ngang qua những vùng thôn quê xen lẫn với những khu nhà mới vừa dựng lên, để đến sở làm. Một vài khúc đường dẫn vào nông trại, nơi đó người ta vừa mới vỡ đất lên luống trồng ngủ cốc, hoặc hoa màu. Những đường cày thẳng tấp rực rỡ màu xanh hiện ra sau những ngày tháng khô hạn, giống như niềm hi vọng ngạt ngào. Tôi không có dịp để tìm hiểu xem người ta đã trồng trọt gì nơi đó. Vài con bò đứng ngơ ngẩn trông theo từng chiếc xe vụt qua. Những con ngựa cũng vậy. Chúng đang lạc lõng yên cương và cúi xuống vạt cỏ dưới chân như hồi tưởng lại thời vàng son, khi những vó câu dẫm lên những cánh đồng xưa cũ? Những đóa dã quỳ vàng rực hai bên đường chạy theo hai bên xe như những màu đời chạy đuổi theo những thanh xuân ngày nào. Khi tôi chưa trưởng thành. Một lúc nào đó có tiếng mưa rung trên mặt kính xe, như tiếng của quá khứ rung trên tấm lòng son trẻ. Khi đứa con trai chưa biết buồn vì đời còn mênh mông phía trước.

Lúc tôi vào đời, mưa cũng từng cơn bay qua thành phố núi. Biển của tôi xa khuất mấy trăm cây số đường dài đang âm thầm những tiếng sóng. Có những tiếng sóng mất hút trong một ghềnh đá và quay trở ra khơi. Có những tiếng sóng nằm lại trong lòng và thổn thức một vết thương.

Làm sao để nói lên thành lời những khao khát khi tôi và em đang ở hai đầu đường nhìn về nhau ái ngại? Trong khi mưa đang xóa nhòa mọi dấu vết trên đường chiều.

Tháng chín tôi đi vào quân trường. Tháng tám tôi còn đứng chôn chân ngoài lớp học. Tôi vừa nghe tin mình thi rớt khi trong tay cầm chắc tờ giấy gọi nhập ngũ thay cho mảnh bằng Tú Tài. Tôi biết mùa tựu trường tới đây thiếu vắng một đứa học trò trong sân chơi và bàn ghế cũng nghe lạnh một chỗ ngồi.

Tôi đi ra biển, qua những cây bàng già vừa nhuộm màu đỏ trên lá. Con đường dẫn ra Bãi Trước bình thản những dấu giầy. Chiếc quán cà phê của một thời phiêu bồng tập làm người lớn vẫn tấp nập như mọi ngày. Quán có tên Năm Tròn- một cái tên mà ngày đó tôi không thấy được sự tròn trịa trong đó- mãi đến sau này khi đi phép về tôi mới cảm nhận được. Khi người ta chưa mất mát, người ta không bao giờ nhớ đến cái hạnh phúc tròn trịa trong bàn tay.

Từ trên lề đường, muốn xuống quán phải trèo xuống những tam cấp có từ thời người Pháp còn làm việc. Thời gian làm xấu xí mặt đá tráng xi măng và đôi chỗ hiện ra màu nâu của cốt thép. Gió biển cũng góp phần bào mòn lối đi và tình yêu cũng nghe mòn mõi không kém. Phía trên lề đường, nơi tọa lạc của nhà Bưu Ðiện, một nơi chốn quen thuộc của mọi cư dân trong vùng. Những đứa học trò như chúng tôi sẽ không bao giờ quên được ngôi nhà có nhiều tầng lầu kiên cố và gian phòng rộng trong khi nền nhà ngày đó được lát bằng gạch tàu. Sau này được thay thế bằng gạch men. Chính giữa là phòng làm việc. Những nhân viên suốt ngày bận bịu với những chồng thư, những bưu kiện được gói ghém và đóng mộc bên ngoài. Tôi quen thuộc từng người nơi đó. Một vài người là phụ huynh của bạn học của tôi. Một người có tên là Mai- mà chúng tôi thường gọi là chú Ba Mai. Chú bị hư một con mắt và có gương mặt hiền hậu, dễ mến. Tôi có với chú rất nhiều kỹ niệm, khi tôi vừa đi học vừa viết bài gởi đăng báo Sàigòn. Những bút hiệu tôi dùng thời đó không dinh dấp đến tên thật của tôi cho nên Chú Ba Mai là người giúp cho những lá thư của tòa soạn gởi đến địa chĩ nhà tôi không bị thất lạc. Trong đó cũng kèm theo nhiều lá thư tìm bạn bốn phương. Trong suốt mùa nghĩ hè, nhiều buổi trưa gần giờ cơm, tôi thấy chú tất tả đạp xe hướng về nhà tôi dưới chân núi Lớn là tôi biết tôi có thư. Những niềm vui lớn nhỏ tùy theo những địa chĩ mà tôi mong đợi trên bì thơ. Tôi lên tiếng cám ơn chú và đón bắt được cái hạnh phúc đơn điệu đến từ bàn tay chú, qua những bì thơ còn thơm mùi mực ghi dấu ngày nhận. Ánh mắt chú tỏa sáng niềm vui như thể niềm vui đó không phải chú ban phát cho tôi mà là chú nhận lảnh.

Sau này, khi tôi vào lính, chú vẫn còn làm việc nơi đó, nhưng già nua hơn. Những người khác cũng vậy. Những cây bàng già trước sân cũng theo thời gian già nua như họ. Mọi người vượt qua biển dâu. Nhưng sẽ có những thứ tình cảm luôn tồn tại và sừng sững không thể vượt qua được. Một trong những tình cảm đó, là mối tình đơn phương của tôi và Trương Thu Thủy, mà tôi sẽ nói sau đây...

2.

Mười bảy tuổi tôi học lớp đệ tam. Mỗi ngày đến trường từ nhà tôi đi qua khu phố Chợ Vũng Tàu. Qua hai đường Trưng Trắc, Trưng Nhị. Nhưng từ trường trở về tôi thường la cà theo những con đường khác, tùy hứng. Nhiều buổi học tan sớm vì không có lớp hoặc không có thầy giảng. Khi thì ghé qua một tiệm sinh tố có một bàn billard nơi góc đường Lý Thường Kiệt, Ðồ Chiểu. (Tiệm có tên là Kim Kỳ). Khi thì ghé vòng qua bên kia đường Trần Hưng Ðạo, ngang sạp báo Sông Lô để đọc báo cọp. Nhà nghèo, ngoài số tiền khiêm tốn mà mẹ tôi cho tôi mỗi ngày, tôi không thể có dư tiến để mua thêm sách báo đọc thêm, nên chỉ còn một phương cách là ghé sạp báo để xem chùa. Lúc đầu chủ sạp còn cự nự, sau thấy tội nghiệp nên bỏ qua.

Vài lần tôi nấn ná tại sân trường cùng với bạn bè chơi thể thao. Môn thể thao mà tôi ưa thích ngày đó là bóng bàn và bóng chuyền. Tuổi thơ tôi mượt mà nhưng cũng trong veo như một vệt nắng rơi nhanh trên một góc hành lang. Khi mà tình yêu chưa thể định nghĩa thành lời. Trong lúc chúng tôi chia phe đánh Volley thì các nữ sinh cùng lớp lượn lờ bên cạnh các gánh hàng rong nơi hàng rào. Có những món ăn thức uống phổ thông và tên tuổi của người bán hàng lẫm liệt đi vào “lịch sữ ăn quà vặt” của các nữ sinh ngày đó. Và cũng có biết bao tình cảm nẩy sinh từ bên những gánh hàng rong. Chúng tôi gán ghép tình yêu cho nhau, không cần biết trái tim của đối tượng mà chúng tôi gán ghép có bao nhiêu phần trăm mở ngỏ để bù đáp lại. Ðôi khi những lời gán ghép có phản ứng ngược và sau đó chủ nhân của nó nhận lãnh những cái liếc xéo bằng mắt mà đuôi của nó dài hơn con đường ra biển. Ðôi khi những lời đùa chơi lại hóa thành sự thật. Và những mối tình học trò có điều kiện để nở hoa. Nhưng dù thế nào, những chiếc áo dài trắng vẫn nhởn nhơ rong chơi, như những con sơn dương hiền lành trước mắt bầy sư tử lãng mạn. Trong khi những gánh quà rong cũng vơi dần theo nhịp thời gian bên những cô gái vừa bớt đi tâm hồn ăn uống.

Có nhiều lúc tôi không được tham dự vào cuộc chơi cùng với những đứa bạn khác, vì tụi nó có khả năng hơn. Tôi cùng vài đứa khác (ốm o và nhỏ con giống nhau) ngồi trên hàng rào xi măng luyến tiếc nhìn xuống, mường tượng đến những kết quả chung cuộc.

Những sách vở bị bỏ bê lăn lóc dưới chân cột lưới. Một vài quyển bị sổ tung. Trang giấy trắng thơ mộng phơi ra như lòng chúng tôi ngày đó, chưa biết chia ô, chưa biết kẻ hàng. Và những ngày như vậy thường có gió thổi miên man, kéo theo những chùm phượng đỏ rơi xuống sân trường, như những vệt máu.

Trương Thu Thủy là một cô gái bằng tuổi với tôi, hay nhỏ hơn một chút. Tôi không có cơ hội để biết nàng có nặng lòng với một ai trong đám con trai chúng tôi hay không, vì Thủy chỉ học ở trường Trung Học Vũng Tàu có vài năm rồi đổi về Sàigòn (?). Nhưng tôi biết lòng tôi không còn bình yên khi chạm đến đôi mắt nàng.

Có thể rồi tất cả đều không còn cảm thấy bình yên- những đứa con trai lớn xác nhưng tâm hồn quá thơ dại- Có những dung nhan đi qua đời một người, không hằn lại một dấu tích. Có những dung nhan dừng lại và thẩm thấu như một vết mực vô tình rụng xuống trên trang vở đầu đời. Người con gái luôn là một dòng sông để cho đứa con trai cảm thấy mù lòa đứng ngẩn ngơ không tìm thấy con đường nào ra biển.

Tôi không nhớ tôi cảm giác được sự dịu dàng từ đôi mắt của nàng từ bao giờ- trong lớp học hay giờ ra chơi- Nhưng tôi biết tôi không thể yên ổn khi tiếng kẻng báo hiệu giờ ra về. Ðôi mắt Thủy sâu và tròn vo như hai hột nhản khi nhìn ra chỗ chúng tôi đang chơi. Qua vai nàng, thời gian như ngắn ngủi, đọng lại và cái không gian chật hẹp kia bỗng trở thành nỗi nhớ thênh thang. Mười bảy tuổi tôi không thể tự mang trên vai mình gánh nặng của tình yêu để đêm về tương tư như lời nhạc của Trúc Phương:

“sau lưng vết tích chưa lành,

tình yêu trước mặt nên đành làm ngơ,

ôm lại nhỡ, buông xuôi đành nhỡ,

vì nhỡ nên thừa...”

Mười bảy tuổi, nàng đang đứng đó và gởi đều cho những đứa con trai nỗi nhức nhối. Ðôi má lúm đồng tiền và bờ môi cong vút màu phượng cháy đang phụng phịu. Ly đậu đỏ bánh lọt sẽ đi vào môi miệng nàng dễ dàng, nhưng còn tình yêu sẽ khó khăn để đi vào trái tim mà không vấp phải sự kháng cự...

3.

Năm 1990, có lần tôi lưu lạc ở Sàigòn. Tôi vừa lập gia đình và cuộc hôn nhân không vui như tôi nghĩ. Mấy năm chăn gối với người bạn đường, tôi và nàng quả thật có đứng cùng một bến sông mà mắt nhìn về hai hướng mộng. Chúng tôi có một đứa con gái. Nhiều lần cay đắng, tôi có ý định chia tay. Nhưng không lần nào có kết quả. Ðứa con, dù không phải là cánh tay nối dài những mơ ước của người cha hay người mẹ- nhưng dù sao nó cũng là gạch nối, hay ít ra cũng là một chất keo hàn gắn những tan vỡ.

Một buổi sáng tôi xa Vũng Tàu, ngồi ở bên hông Nhà Hát Lớn Sài Gòn, vừa uống cà phê vừa nhìn ra con đường Nguyễn Huệ trước mặt. Những dòng người hối hà xuôi ngược như thể muốn chạy tìm cho mình một nơi chốn hạnh phúc phồn hoa. Có một chút mưa bay vội vàng trên mái dù nhiều màu. Từ quán cà phê lộ thiên, tôi nhớ Vũng Tàu. Nhớ về một vùng biển thời thơ ấu. Nhớ cả con gái tôi vừa lên ba tuổi. Gần đến ngày sinh nhật của nó và tôi ao ước được mua cho nó một món đồ chơi. Nỗi buồn đọng xuống thành ly để trở thành nỗi khát khao ũ rũ. Tôi mượn giấy viết của người chủ quán viết xuống những câu thơ, mà lúc đó tôi nghĩ nếu không viết ra tôi sẽ không thể nào chịu nổi. Bài thơ có tựa là Mùa Mạc Lan Cuối Cùng:



chiều đi qua những phố đông người

bỗng thấy lòng rã rượi

thoáng bồi hồi nhớ nụ hôn xưa

như đóa hoa xanh xao vắng mặt

ngày sinh nhật con



cột điện nghiêng giữa bờ tường loang lổ mảng vôi

chuyến buýt trôi qua

người khách cuối

em mất tăm giữa lòng xe cộ

chiều tháng tám mưa bay

Váng vất ly cà phê buổi sáng mái hiên

bên hông Nhà Hát Lớn

Mùi phong lan đài các

điệu bass trầm cuối một hành lang

giữa nhịp tim con hoan lạc



gã hành khất mù tóc rối phong sương

lòng nón cong queo tờ bạc nhỏ

sờ soạng bàn tay run

niềm hạnh phúc khô trong áo



đêm trở về có những vì sao

dòng sông đen phiền muộn

tiếng hát đuổi theo tuổi hai mươi

cùng những ngày bão rớt

bên kia cầu tuổi thơ

em khóc chia tay thời con gái

không hề quay lại

(năm một ngàn chín trăm bảy mươi ba)

Và mưa bỗng trở nên dữ dội

ta vuốt mặt giữa Sàigòn hấp hối.

Minh Nguyệt ơi và Trương Thu Thủy em ơi...

.....................

(trích một đoạn)

Bài thơ có 47 câu thơ, nhưng tự dưng có một câu nhắc đến tên Trương Thu Thủy, không hiểu tại sao.

Thời gian qua lâu lắm rồi, đủ để tôi lạnh lòng. Vả chăng ngày xưa nàng có biết tôi yêu nàng ra sao? Những tình yêu như mưa bóng mây bay qua vai đời một người con gái giống như tiếng chim kêu buồn trong lòng một gã con trai thất bại. Rốt cuộc sẽ không làm trưởng thành một giấc mơ để khi giật mình tỉnh thức phải bẻ bàng.

Khi ra hải ngoại- năm 1991- tôi gởi bài thơ cho nhà văn Mai Thảo, coi như món quà tái ngộ sau nhiều chục năm, kể từ ngày ông đăng bài thơ đầu tiên của tôi trên giai phẩm Văn (1973). Sau nầy tình cờ tôi biết được chị Bích Huyền cũng đọc bài thơ đó trên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) phát thanh tại quận Cam, nhân ngày Lễ Cha. Tôi không biết bài thơ của tôi đi qua những không gian, những góc phố đang quấn quít hương nồng. Tôi cũng không hình dung ra những tình cảm của người đàn ông lở thời và nát ngứu tương lai ngày nào của Việt Nam đã đậu xuống bao lâu trên tấm lòng của những ngưới cha hải ngoại?  Vì địa phương tôi không có đài phát htanh để tiếp nhận sóng.

Bốn mươi bốn năm trôi qua, kể từ thời gian tôi bắt gặp đôi mắt màu hột nhản nhìn xuống sân chơi và vành môi phụng phịu gió mùa. Bốn mươi bốn năm có còn đủ để lòng tôi nhớ lại một màu son và đôi lúm đồng tiền? Những màu sắc và hình ảnh đó có còn tươi mát hay đã cạn khô theo dòng đời? Tôi nghĩ đến những chiếc lá úa màu thời gian trên các cây bàng nơi đường ra biển. Tôi nghĩ một lúc nào đó rồi nàng cũng khác xưa và tôi cũng vậy.

Có khi nào tôi và Thủy sẽ gặp nhau trên một chặng đường nào đó trên nước Mỹ, nhưng sẽ không nhìn ra nhau. Cả hai đều lơ đảng vượt qua với tấm lòng đã mất dấu về nhau? Biết đâu? Vì thời gian không thiên vị một ai. Nếu như vậy thì buồn bã biết bao...

4.

            Nhưng định mệnh vẫn có những phân chia trên một chặng đường bằng những cột mốc. Có những cột mốc đánh dấu một ngả rẽ, một chỗ dừng. Có những cột mốc đánh dấu đường hai chiều và đường không có “exit”. Có những cột mốc đánh dấu niềm vui hay lồng trong đó một tiếng thở dài. Tôi già nua để không chờ đợi định mệnh đưa tôi trở ngược về thời gian bốn mươi bốn năm trước như trong phim giả tưởng.

            Buổi tối ngồi trước bàn phím cùng với những lơ đảng như mọi khi, tôi bắt gặp một mẫu tin trên e mail. Kèm theo e mail là một bức ảnh. Dưới đó có lời thông báo của Ba Thới, tức Trương Vĩnh Thới, người bạn học ngày xưa. Anh bạn này đang kêu gào khan cổ về một “vòng tay mở rộng” để đón một cánh buồm mãi rong chơi, vừa quay về với biển.

            Cánh buồm đó là Trương Thu Thủy. Nàng vừa quay về thăm lại biển xưa với lòng mở căng gió mát trùng dương cùng người tài công- cũng vừa là người bạn đời. Cả hai đang nhìn ra nắng gió vùng San José- nhìn ra ống kính như nhìn ra cuộc đời thơm ngát.

Tháng tám đang chớm mùa thu. Tôi không biết có phải gió thu làm gợn những hơi bụi bay lên từ những vạt rừng vừa bị cháy ở Cali, hay tại hạnh phúc đã thẩm thấu no đầy thử thách thời gian? Nên màu mắt của nàng sậm màu hơn và long lanh hơn ngày trước...?

Tháng 8, năm 2007

Tuesday, February 14, 2012

em xuống phố mang tấm lòng hối hả

THƠ
PNY

1.

Ngực tháng giêng xuống đường

Cách xa nửa vòng trái đất

Em nắm oan khiên trong bàn tay chơn chất

Gởi về thế giới gần xa



Khói đạn cay che lấp trái tim già

Hơn ba mươi năm chưa một lần hấp hối

Sau lưng em những thân ngưòi đổ vội

Cuống cuồng tiếng súng mùa xuân



Góc công viên có viên đạn đồng

Không nổ

Như miếng kẹo giờ chia tay

Túi áo em những hoa nhài mới hái

Bên đường lạc mất tình nhân



Em cười với anh và khóc với anh

Gởi đến hân hoan những bước chân tù tội

Khi những lưỡi lê cúi đầu bối rối

Trước đứng lên đòi cơm áo cho mình

Thành phố nào vừa mới biết bình minh?



Quảng trưòng Le Cairo sáng nay hay giữa kênh đào

lộng lẩy?

(Nối liến từ đông sang tây)

Để tự do không còn khoảng cách

Để tự do như một điều ẩn dụ

Sáng ngời đôi mắt Nhân Sư (*)



Chuyến xe chở ngày về bình yên

Em xuống đường cất vang tiếng hát.

Sa mạc Sinai và mấy ngàn năm Kim Tự Tháp

Em ngở mình đứng giữa mùa xuân



Cả thế giới nhìn em thương tiếng cười nhân hậu

Thương ba mươi năm chưa từng chơi trốn bắt

Chưa từng “tháo mạng” nhìn quanh

Những bông tuyết mùa đông hay hoa nhài lấp lánh

Có phần em trong đó góp cho đời…



2.

Còn đất nước anh cũng nửa vòng trái đất

Mất dần biển đảo phù sa

Ngày xưa rừng vàng biển bạc

Bây giờ bùn đỏ bao la

Cô gái bán mình xa xứ,

Quê người riêng mảnh trăng hư



Những tiếng chim không tìm ra nhánh cũ

Tấm lòng Trưng Triệu, Quang Trung

Đêm thức trắng đọc Bình Ngô Đại Cáo

Hồn Cha- Ông nghe máu rượm bên trời



Mảnh đất nhỏ hơn bàn tay- (chữ S)

Ủ mầm bauxite xanh xao

Còn nguyên mối thù Mã Viện

Trụ đồng che cả ca dao



Đêm giao thừa

Cả nước đốt pháo bông

Mời đón ngàn năm Thăng Long

hay đón mời ô nhục?



Ba mươi sáu năm dài hơn giấc mộng

Gởi em ngọn gió hôn lên cuộc đời lớn rộng

Từ Tunisie, từ Ai Cập thổi về.

Những đói nghèo

Rời rụng trước mưa xuân



Đất nước anh có xa lộ Truờng Sơn

Cũng có nhịp cầu nối liền Đông Tây “hoành tráng”

Nhưng không nối đưọc lòng dân về với Đảng…

Vì sao?



Vì những đóa nhài ngăn ngắt hôm nay

Chưa tỏa hết mùi thơm ước vọng

Bão nhiệt đới vừa đi qua thành phố mỏng

80 chục triệu người thôi bám rễ đất đai



Mùa xuân của nơi kia, tháng một của nơi này.

Cách mạng nào cũng dấy lên từ bất công áp bức

Khi Bucarest, Varsova trở mình thổn thức

Thì Sàigòn, Hà Nội dững dưng…



3.

Những đóa nhài quê tôi lớn lên

(Mọc nhiều hơn tuổi trẻ)

Ai ngờ rụng sớm vườn xanh?

Anh không thể về gõ cửa ngày xanh

Để nhuộm lòng mình bằng một màu nắng lóe



Vì sao mỗi góc đời là mỗi miền dâu bể?

Chưa từng hạnh phúc bình yên?

Em đứng chờ gì khi những ngọn gió đêm

Thổi mù mịt hai cửa đời im khép?



Những tình ca luôn nói về cái đẹp

Nhưng còn cái xấu thì sao?



Mùa xuân này anh chờ đợi một cơ may

Đậu xuống Sàigòn Việt Nam như ngày Rùa thiêng gởi kiếm.

Ngày ấy dân tộc mình rất trẻ

Chưa từng biết chuyện lìa xa



Mỗi đất nước có một chiều dài và có một lịch sữ

Khi anh hiểu về em

Và em hiểu về đời thì lịch sữ đã sang trang

Nên những bước chân tái xám thời gian

Không qua hết chiều dài tổ quốc.



Nhưng núi có hồn thiêng và sông có hồn riêng

Để hơi thở tiền nhân thổi qua đời lẫm liệt.

Những tình ca luôn nói về cái thiện

Nhưng còn cái ác thì sao?



Ba mươi sáu năm dài hơn một giấc chiêm bao

Em xuống phố mang tấm lòng hối hả

Đòi lại áo cơm mà không đòi phép lạ

Đòi lại biển xưa cho cánh buồm đói lả

Mỗi ngày no gió trùng dương



Em, cô gái của thời nhiểu nhương

Bỗng phẩn nộ trước Sàigòn đau nhức

Thiên An với Ba Đình gần hơn gang tấc

Cùng ngang ngược bao nhiêu

Và thách thức bao nhiêu

Đồng loạt hẹn giờ sụp đỗ…

Để những đóa nhài mọc lên …
 
 



tháng 2, 2011



(*) Sphinx: Tương Nhân Sư giữa samac Aicập, biểu tượng cho nền văn hóa cổ