Saturday, February 18, 2012

long lanh màu đời

THƯ VIẾT TỪ ĐƯỜNG HEATHERGLEN

Tặng Trương Thu Thủy và Trương Vĩnh Thới




1.

Những cơn mưa phùn sẽ không tới kịp trong ngày hôm nay, để làm tươi mát những con đường. Cái nắng đang chuyển mình chói chan để chạy đuổi theo một mùa hè mang đầy biến động. Chuyện về chiếc cầu đã gẫy trên dòng sông Mississippi, bắt ngang qua thành phố Minneapolis, tiểu bang Minnesota đã làm rung chuyển nước Mỹ và soi mòn niềm tin về hệ thống giao thông ưu việt của Hoa Kỳ. Thiên tai và biến động là những bài học quan trọng mà cuộc đời này có thể nhận biết được, trong đó thông điệp về sự già nua và lão hóa cũng được gởi đến mọi thể chế chính trị, mọi thời đại.

Thế giới luôn chuyển mình và những giá trị hiển nhiên của đời sống cũng thay đổi theo. Mới đây tôi đọc tin tức trên báo thấy tòa nhà cao nhất thế giới có tên là Burj Dubai đă được xây dựng và sẽ hoàn thành vào năm 2008. Dubai là một nước nhỏ bé trong Liên Hiệp Các Tiểu Vương Quốc Á Rập (UEA) thuộc vùng vịnh Ba Tư. Cao ốc có chiều cao 1,601 feet (512.1 m) tính đến năm 2007. Nhưng các nhà phát triển tiết lộ rằng đến cuối cùng thì cao ốc có thể cao đến 2,275 feet, với hơn 160 tầng. Kỷ lục cũ thuộc về cao ốc Sears Tower, tại Chicago, cao 1,451 feet, gồm 110 tầng.

Ðứng bên cạnh những tòa nhà nói trên thì Empire State Building tại New York (1,250 feet) chỉ là một chú bé khiêm tốn.

Dù sao, khi chạy xe trên đoạn đường cao tốc mỗi sáng sớm tôi vẫn thấy sự thanh thản trong lòng. Con đường 45 South nối liền Loop 1 để về Hutto có một lúc nào đó phải ngang qua trạm đóng tiền. Ðây là đoạn cầu mới vừa hoàn thành cách đây vài tháng, nối liền một quận lỵ heo hút miền đông của Austin đến tận miền tây sầm uất là phi trường Bergtrom. Con đường đang có chiều hướng phát triển và có khả năng trở thành một trong những con đường huyết mạch về kinh tế trong tương lai.

Tôi chạy xe ngang qua những vùng thôn quê xen lẫn với những khu nhà mới vừa dựng lên, để đến sở làm. Một vài khúc đường dẫn vào nông trại, nơi đó người ta vừa mới vỡ đất lên luống trồng ngủ cốc, hoặc hoa màu. Những đường cày thẳng tấp rực rỡ màu xanh hiện ra sau những ngày tháng khô hạn, giống như niềm hi vọng ngạt ngào. Tôi không có dịp để tìm hiểu xem người ta đã trồng trọt gì nơi đó. Vài con bò đứng ngơ ngẩn trông theo từng chiếc xe vụt qua. Những con ngựa cũng vậy. Chúng đang lạc lõng yên cương và cúi xuống vạt cỏ dưới chân như hồi tưởng lại thời vàng son, khi những vó câu dẫm lên những cánh đồng xưa cũ? Những đóa dã quỳ vàng rực hai bên đường chạy theo hai bên xe như những màu đời chạy đuổi theo những thanh xuân ngày nào. Khi tôi chưa trưởng thành. Một lúc nào đó có tiếng mưa rung trên mặt kính xe, như tiếng của quá khứ rung trên tấm lòng son trẻ. Khi đứa con trai chưa biết buồn vì đời còn mênh mông phía trước.

Lúc tôi vào đời, mưa cũng từng cơn bay qua thành phố núi. Biển của tôi xa khuất mấy trăm cây số đường dài đang âm thầm những tiếng sóng. Có những tiếng sóng mất hút trong một ghềnh đá và quay trở ra khơi. Có những tiếng sóng nằm lại trong lòng và thổn thức một vết thương.

Làm sao để nói lên thành lời những khao khát khi tôi và em đang ở hai đầu đường nhìn về nhau ái ngại? Trong khi mưa đang xóa nhòa mọi dấu vết trên đường chiều.

Tháng chín tôi đi vào quân trường. Tháng tám tôi còn đứng chôn chân ngoài lớp học. Tôi vừa nghe tin mình thi rớt khi trong tay cầm chắc tờ giấy gọi nhập ngũ thay cho mảnh bằng Tú Tài. Tôi biết mùa tựu trường tới đây thiếu vắng một đứa học trò trong sân chơi và bàn ghế cũng nghe lạnh một chỗ ngồi.

Tôi đi ra biển, qua những cây bàng già vừa nhuộm màu đỏ trên lá. Con đường dẫn ra Bãi Trước bình thản những dấu giầy. Chiếc quán cà phê của một thời phiêu bồng tập làm người lớn vẫn tấp nập như mọi ngày. Quán có tên Năm Tròn- một cái tên mà ngày đó tôi không thấy được sự tròn trịa trong đó- mãi đến sau này khi đi phép về tôi mới cảm nhận được. Khi người ta chưa mất mát, người ta không bao giờ nhớ đến cái hạnh phúc tròn trịa trong bàn tay.

Từ trên lề đường, muốn xuống quán phải trèo xuống những tam cấp có từ thời người Pháp còn làm việc. Thời gian làm xấu xí mặt đá tráng xi măng và đôi chỗ hiện ra màu nâu của cốt thép. Gió biển cũng góp phần bào mòn lối đi và tình yêu cũng nghe mòn mõi không kém. Phía trên lề đường, nơi tọa lạc của nhà Bưu Ðiện, một nơi chốn quen thuộc của mọi cư dân trong vùng. Những đứa học trò như chúng tôi sẽ không bao giờ quên được ngôi nhà có nhiều tầng lầu kiên cố và gian phòng rộng trong khi nền nhà ngày đó được lát bằng gạch tàu. Sau này được thay thế bằng gạch men. Chính giữa là phòng làm việc. Những nhân viên suốt ngày bận bịu với những chồng thư, những bưu kiện được gói ghém và đóng mộc bên ngoài. Tôi quen thuộc từng người nơi đó. Một vài người là phụ huynh của bạn học của tôi. Một người có tên là Mai- mà chúng tôi thường gọi là chú Ba Mai. Chú bị hư một con mắt và có gương mặt hiền hậu, dễ mến. Tôi có với chú rất nhiều kỹ niệm, khi tôi vừa đi học vừa viết bài gởi đăng báo Sàigòn. Những bút hiệu tôi dùng thời đó không dinh dấp đến tên thật của tôi cho nên Chú Ba Mai là người giúp cho những lá thư của tòa soạn gởi đến địa chĩ nhà tôi không bị thất lạc. Trong đó cũng kèm theo nhiều lá thư tìm bạn bốn phương. Trong suốt mùa nghĩ hè, nhiều buổi trưa gần giờ cơm, tôi thấy chú tất tả đạp xe hướng về nhà tôi dưới chân núi Lớn là tôi biết tôi có thư. Những niềm vui lớn nhỏ tùy theo những địa chĩ mà tôi mong đợi trên bì thơ. Tôi lên tiếng cám ơn chú và đón bắt được cái hạnh phúc đơn điệu đến từ bàn tay chú, qua những bì thơ còn thơm mùi mực ghi dấu ngày nhận. Ánh mắt chú tỏa sáng niềm vui như thể niềm vui đó không phải chú ban phát cho tôi mà là chú nhận lảnh.

Sau này, khi tôi vào lính, chú vẫn còn làm việc nơi đó, nhưng già nua hơn. Những người khác cũng vậy. Những cây bàng già trước sân cũng theo thời gian già nua như họ. Mọi người vượt qua biển dâu. Nhưng sẽ có những thứ tình cảm luôn tồn tại và sừng sững không thể vượt qua được. Một trong những tình cảm đó, là mối tình đơn phương của tôi và Trương Thu Thủy, mà tôi sẽ nói sau đây...

2.

Mười bảy tuổi tôi học lớp đệ tam. Mỗi ngày đến trường từ nhà tôi đi qua khu phố Chợ Vũng Tàu. Qua hai đường Trưng Trắc, Trưng Nhị. Nhưng từ trường trở về tôi thường la cà theo những con đường khác, tùy hứng. Nhiều buổi học tan sớm vì không có lớp hoặc không có thầy giảng. Khi thì ghé qua một tiệm sinh tố có một bàn billard nơi góc đường Lý Thường Kiệt, Ðồ Chiểu. (Tiệm có tên là Kim Kỳ). Khi thì ghé vòng qua bên kia đường Trần Hưng Ðạo, ngang sạp báo Sông Lô để đọc báo cọp. Nhà nghèo, ngoài số tiền khiêm tốn mà mẹ tôi cho tôi mỗi ngày, tôi không thể có dư tiến để mua thêm sách báo đọc thêm, nên chỉ còn một phương cách là ghé sạp báo để xem chùa. Lúc đầu chủ sạp còn cự nự, sau thấy tội nghiệp nên bỏ qua.

Vài lần tôi nấn ná tại sân trường cùng với bạn bè chơi thể thao. Môn thể thao mà tôi ưa thích ngày đó là bóng bàn và bóng chuyền. Tuổi thơ tôi mượt mà nhưng cũng trong veo như một vệt nắng rơi nhanh trên một góc hành lang. Khi mà tình yêu chưa thể định nghĩa thành lời. Trong lúc chúng tôi chia phe đánh Volley thì các nữ sinh cùng lớp lượn lờ bên cạnh các gánh hàng rong nơi hàng rào. Có những món ăn thức uống phổ thông và tên tuổi của người bán hàng lẫm liệt đi vào “lịch sữ ăn quà vặt” của các nữ sinh ngày đó. Và cũng có biết bao tình cảm nẩy sinh từ bên những gánh hàng rong. Chúng tôi gán ghép tình yêu cho nhau, không cần biết trái tim của đối tượng mà chúng tôi gán ghép có bao nhiêu phần trăm mở ngỏ để bù đáp lại. Ðôi khi những lời gán ghép có phản ứng ngược và sau đó chủ nhân của nó nhận lãnh những cái liếc xéo bằng mắt mà đuôi của nó dài hơn con đường ra biển. Ðôi khi những lời đùa chơi lại hóa thành sự thật. Và những mối tình học trò có điều kiện để nở hoa. Nhưng dù thế nào, những chiếc áo dài trắng vẫn nhởn nhơ rong chơi, như những con sơn dương hiền lành trước mắt bầy sư tử lãng mạn. Trong khi những gánh quà rong cũng vơi dần theo nhịp thời gian bên những cô gái vừa bớt đi tâm hồn ăn uống.

Có nhiều lúc tôi không được tham dự vào cuộc chơi cùng với những đứa bạn khác, vì tụi nó có khả năng hơn. Tôi cùng vài đứa khác (ốm o và nhỏ con giống nhau) ngồi trên hàng rào xi măng luyến tiếc nhìn xuống, mường tượng đến những kết quả chung cuộc.

Những sách vở bị bỏ bê lăn lóc dưới chân cột lưới. Một vài quyển bị sổ tung. Trang giấy trắng thơ mộng phơi ra như lòng chúng tôi ngày đó, chưa biết chia ô, chưa biết kẻ hàng. Và những ngày như vậy thường có gió thổi miên man, kéo theo những chùm phượng đỏ rơi xuống sân trường, như những vệt máu.

Trương Thu Thủy là một cô gái bằng tuổi với tôi, hay nhỏ hơn một chút. Tôi không có cơ hội để biết nàng có nặng lòng với một ai trong đám con trai chúng tôi hay không, vì Thủy chỉ học ở trường Trung Học Vũng Tàu có vài năm rồi đổi về Sàigòn (?). Nhưng tôi biết lòng tôi không còn bình yên khi chạm đến đôi mắt nàng.

Có thể rồi tất cả đều không còn cảm thấy bình yên- những đứa con trai lớn xác nhưng tâm hồn quá thơ dại- Có những dung nhan đi qua đời một người, không hằn lại một dấu tích. Có những dung nhan dừng lại và thẩm thấu như một vết mực vô tình rụng xuống trên trang vở đầu đời. Người con gái luôn là một dòng sông để cho đứa con trai cảm thấy mù lòa đứng ngẩn ngơ không tìm thấy con đường nào ra biển.

Tôi không nhớ tôi cảm giác được sự dịu dàng từ đôi mắt của nàng từ bao giờ- trong lớp học hay giờ ra chơi- Nhưng tôi biết tôi không thể yên ổn khi tiếng kẻng báo hiệu giờ ra về. Ðôi mắt Thủy sâu và tròn vo như hai hột nhản khi nhìn ra chỗ chúng tôi đang chơi. Qua vai nàng, thời gian như ngắn ngủi, đọng lại và cái không gian chật hẹp kia bỗng trở thành nỗi nhớ thênh thang. Mười bảy tuổi tôi không thể tự mang trên vai mình gánh nặng của tình yêu để đêm về tương tư như lời nhạc của Trúc Phương:

“sau lưng vết tích chưa lành,

tình yêu trước mặt nên đành làm ngơ,

ôm lại nhỡ, buông xuôi đành nhỡ,

vì nhỡ nên thừa...”

Mười bảy tuổi, nàng đang đứng đó và gởi đều cho những đứa con trai nỗi nhức nhối. Ðôi má lúm đồng tiền và bờ môi cong vút màu phượng cháy đang phụng phịu. Ly đậu đỏ bánh lọt sẽ đi vào môi miệng nàng dễ dàng, nhưng còn tình yêu sẽ khó khăn để đi vào trái tim mà không vấp phải sự kháng cự...

3.

Năm 1990, có lần tôi lưu lạc ở Sàigòn. Tôi vừa lập gia đình và cuộc hôn nhân không vui như tôi nghĩ. Mấy năm chăn gối với người bạn đường, tôi và nàng quả thật có đứng cùng một bến sông mà mắt nhìn về hai hướng mộng. Chúng tôi có một đứa con gái. Nhiều lần cay đắng, tôi có ý định chia tay. Nhưng không lần nào có kết quả. Ðứa con, dù không phải là cánh tay nối dài những mơ ước của người cha hay người mẹ- nhưng dù sao nó cũng là gạch nối, hay ít ra cũng là một chất keo hàn gắn những tan vỡ.

Một buổi sáng tôi xa Vũng Tàu, ngồi ở bên hông Nhà Hát Lớn Sài Gòn, vừa uống cà phê vừa nhìn ra con đường Nguyễn Huệ trước mặt. Những dòng người hối hà xuôi ngược như thể muốn chạy tìm cho mình một nơi chốn hạnh phúc phồn hoa. Có một chút mưa bay vội vàng trên mái dù nhiều màu. Từ quán cà phê lộ thiên, tôi nhớ Vũng Tàu. Nhớ về một vùng biển thời thơ ấu. Nhớ cả con gái tôi vừa lên ba tuổi. Gần đến ngày sinh nhật của nó và tôi ao ước được mua cho nó một món đồ chơi. Nỗi buồn đọng xuống thành ly để trở thành nỗi khát khao ũ rũ. Tôi mượn giấy viết của người chủ quán viết xuống những câu thơ, mà lúc đó tôi nghĩ nếu không viết ra tôi sẽ không thể nào chịu nổi. Bài thơ có tựa là Mùa Mạc Lan Cuối Cùng:



chiều đi qua những phố đông người

bỗng thấy lòng rã rượi

thoáng bồi hồi nhớ nụ hôn xưa

như đóa hoa xanh xao vắng mặt

ngày sinh nhật con



cột điện nghiêng giữa bờ tường loang lổ mảng vôi

chuyến buýt trôi qua

người khách cuối

em mất tăm giữa lòng xe cộ

chiều tháng tám mưa bay

Váng vất ly cà phê buổi sáng mái hiên

bên hông Nhà Hát Lớn

Mùi phong lan đài các

điệu bass trầm cuối một hành lang

giữa nhịp tim con hoan lạc



gã hành khất mù tóc rối phong sương

lòng nón cong queo tờ bạc nhỏ

sờ soạng bàn tay run

niềm hạnh phúc khô trong áo



đêm trở về có những vì sao

dòng sông đen phiền muộn

tiếng hát đuổi theo tuổi hai mươi

cùng những ngày bão rớt

bên kia cầu tuổi thơ

em khóc chia tay thời con gái

không hề quay lại

(năm một ngàn chín trăm bảy mươi ba)

Và mưa bỗng trở nên dữ dội

ta vuốt mặt giữa Sàigòn hấp hối.

Minh Nguyệt ơi và Trương Thu Thủy em ơi...

.....................

(trích một đoạn)

Bài thơ có 47 câu thơ, nhưng tự dưng có một câu nhắc đến tên Trương Thu Thủy, không hiểu tại sao.

Thời gian qua lâu lắm rồi, đủ để tôi lạnh lòng. Vả chăng ngày xưa nàng có biết tôi yêu nàng ra sao? Những tình yêu như mưa bóng mây bay qua vai đời một người con gái giống như tiếng chim kêu buồn trong lòng một gã con trai thất bại. Rốt cuộc sẽ không làm trưởng thành một giấc mơ để khi giật mình tỉnh thức phải bẻ bàng.

Khi ra hải ngoại- năm 1991- tôi gởi bài thơ cho nhà văn Mai Thảo, coi như món quà tái ngộ sau nhiều chục năm, kể từ ngày ông đăng bài thơ đầu tiên của tôi trên giai phẩm Văn (1973). Sau nầy tình cờ tôi biết được chị Bích Huyền cũng đọc bài thơ đó trên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) phát thanh tại quận Cam, nhân ngày Lễ Cha. Tôi không biết bài thơ của tôi đi qua những không gian, những góc phố đang quấn quít hương nồng. Tôi cũng không hình dung ra những tình cảm của người đàn ông lở thời và nát ngứu tương lai ngày nào của Việt Nam đã đậu xuống bao lâu trên tấm lòng của những ngưới cha hải ngoại?  Vì địa phương tôi không có đài phát htanh để tiếp nhận sóng.

Bốn mươi bốn năm trôi qua, kể từ thời gian tôi bắt gặp đôi mắt màu hột nhản nhìn xuống sân chơi và vành môi phụng phịu gió mùa. Bốn mươi bốn năm có còn đủ để lòng tôi nhớ lại một màu son và đôi lúm đồng tiền? Những màu sắc và hình ảnh đó có còn tươi mát hay đã cạn khô theo dòng đời? Tôi nghĩ đến những chiếc lá úa màu thời gian trên các cây bàng nơi đường ra biển. Tôi nghĩ một lúc nào đó rồi nàng cũng khác xưa và tôi cũng vậy.

Có khi nào tôi và Thủy sẽ gặp nhau trên một chặng đường nào đó trên nước Mỹ, nhưng sẽ không nhìn ra nhau. Cả hai đều lơ đảng vượt qua với tấm lòng đã mất dấu về nhau? Biết đâu? Vì thời gian không thiên vị một ai. Nếu như vậy thì buồn bã biết bao...

4.

            Nhưng định mệnh vẫn có những phân chia trên một chặng đường bằng những cột mốc. Có những cột mốc đánh dấu một ngả rẽ, một chỗ dừng. Có những cột mốc đánh dấu đường hai chiều và đường không có “exit”. Có những cột mốc đánh dấu niềm vui hay lồng trong đó một tiếng thở dài. Tôi già nua để không chờ đợi định mệnh đưa tôi trở ngược về thời gian bốn mươi bốn năm trước như trong phim giả tưởng.

            Buổi tối ngồi trước bàn phím cùng với những lơ đảng như mọi khi, tôi bắt gặp một mẫu tin trên e mail. Kèm theo e mail là một bức ảnh. Dưới đó có lời thông báo của Ba Thới, tức Trương Vĩnh Thới, người bạn học ngày xưa. Anh bạn này đang kêu gào khan cổ về một “vòng tay mở rộng” để đón một cánh buồm mãi rong chơi, vừa quay về với biển.

            Cánh buồm đó là Trương Thu Thủy. Nàng vừa quay về thăm lại biển xưa với lòng mở căng gió mát trùng dương cùng người tài công- cũng vừa là người bạn đời. Cả hai đang nhìn ra nắng gió vùng San José- nhìn ra ống kính như nhìn ra cuộc đời thơm ngát.

Tháng tám đang chớm mùa thu. Tôi không biết có phải gió thu làm gợn những hơi bụi bay lên từ những vạt rừng vừa bị cháy ở Cali, hay tại hạnh phúc đã thẩm thấu no đầy thử thách thời gian? Nên màu mắt của nàng sậm màu hơn và long lanh hơn ngày trước...?

Tháng 8, năm 2007

No comments:

Post a Comment