Saturday, May 26, 2012

HAI CHUYẾN TÀU ĐÊM


phạm ngũ yên



1.

Mùa xuân vừa qua tôi không kịp đi xuống phố với con tôi để nhìn lại cây anh đào. Mỗi năm tôi đều hứa với nó, nhưng mỗi năm đều thất hẹn. Ðúng ra nó cũng không tha thiết để đi với tôi, vì bây giờ nó có nhiều niềm vui mới. Tuổi thơ nó không bị ràng buộc bởi kỹ niệm và quá khứ giống như ba nó. Cũng không mặc cảm về những mất mát hay thất bại giống như khi tôi còn trẻ.

Hai mươi tuổi, con tôi vừa đi xuống cuộc đời.

Mới ngày nào nó còn dựa vào tôi khi đi vào siêu thị, hay khép nép bên tôi khi đến trường. Mới ngày nào nó còn chưa biết phải làm sao để thu xếp gọn gàng một chỗ nằm trong phòng riêng hay phân vân chưa biết phải dùng món ăn như thế nào khi vào trong tiệm ăn. Như một con nai hiền đứng ngơ ngác bên xe cộ dòng đời. Và gió rợp từ những cành lá trên đầu làm nó sợ hãi.

Bây giờ nó trưởng thành không cần có tôi. Nhiều khi tôi cảm thấy mất nó như chưa từng có nó bên cạnh.

Khi tôi định cư tại Hoa Kỳ, nó vừa lên năm tuổi. Mẹ nó sợ nó không kham nổi những bài học trong lớp mẫu giáo. Còn tôi sợ nó bị con nít Mỹ ăn hiếp. Vậy mà nó vượt qua được một cách lạ lùng. Ðôi khi với sự giúp đỡ tận tận tình của hai cô giáo Việt Nam- cô Chất và cô Bích Chi- đôi khi do chính bản thân nó. Nhưng thường là do nó nhiều hơn vì tôi không có nhiều thì giờ để chăm sóc việc học hành. Tôi và mẹ nó phải lăn xả vào đời sống mỗi ngày để tồn tại nếu không muốn hoàn cảnh kinh tế bị bế tắt.

Tháng giêng vừa qua, là sinh nhật thứ hai mươi của nó. Tôi lùng kiếm trong Mall mua cho nó một máy nghe nhạc bỏ túi, có khả năng download chừng 500 bài hát. Tôi muốn nó giữ bên cạnh những tiếng hát một thời của ba nó. Như giữ chặt quá khứ, một góc đời. Một lúc nào không còn có tôi đi bên cạnh, nó sẽ nghe lại. Bất kỳ ở chỗ nào, trong thời gian nào, nếu nó còn muốn nghĩ về tôi, nó sẽ nghe được những âm vọng từ một trái tim. Có thể có một vài bài nó không cảm thấy hay, hoặc nghe được mà không thấy hay lắm. Nhưng chắc nó phải hiểu, hoặc ít ra nó cũng cảm nhận được rằng đã có một thời ba nó đã từng đam mê và say đắm như thế nào.

Tôi không hi vọng con tôi sẽ yêu được một tiếng hát như tôi đã từng yêu một tàn phai. Thế hệ của nó không có những mối tình mà hai người yêu nhau nhưng không nhìn thấy nhau ròng rã nhiều chục năm. Không có những nỗi khao khát về nhau khi chiều lên vội vã. Nhiều khi, nó nói tôi sao khô khan quá. “sao ba không giống con?”. Nó mong đợi nơi tôi một lời nói dịu dàng.

Làm sao tôi giải thích cho nó hiểu rằng bên ngoài sự lạnh lùng kia là ẩn dấu bên trong những ấm áp, cháy bỏng của một trái tim tưởng chừng không có tuổi. Vì ngày xưa tôi đã từng như vậy.

2.

Khi tôi giả từ trường lớp để đi xuống cuộc đời, hành trang không có gì nhiều ngoài một kiến thức vụn vặt từ những năm miệt mài sách vở. Những bài học không thể nhập tâm vì đứa con trai sớm biết ủ tương tư và biết buồn vì một màu lá.

Ðã một thời chúng tôi rủ nhau trốn học để ngồi trong quán cà phê. Trời mưa bên ngoài mặt biển lặng yên, nhưng tâm hồn bọn con trai vừa nhức nhối những tiếng sóng. Cô bạn gái chung trường, ngồi coi quán trong ngày thứ bảy, chủ nhật đang chống cằm nhìn đám con trai làm ra vẽ “cụ non” cố đè nén những phá phách. Mái tóc nàng rũ xuống che hai bên má. Ðôi khi nàng ngậm vài sợi tóc trong miệng như hờn dỗi, trong khi làn môi mang cong vút gió mùa. Vài đĩa nhạc được nàng cho vào trong máy, để giữ thời gian dừng lại. Để chờ những cơn mưa tàn lạnh ngoài hiên.

Thời đó bọn con trai chúng tôi tập tành uống cà phê cho ít đường (để làm ra vẽ cay đắng, khổ đau). Tập hút thuốc và hơ cho vàng mấy đầu ngón tay (để nghe vàng phai lướt thướt). Trong khi những đứa con gái lớn lên và mộng. Nàng là một cô chủ quán cũng không ra ngoài điều đó. Mỗi ngày, ngồi sau quầy tính tiền, nàng ban phát đồng đều tình cảm cho mỗi chúng tôi- những gả con trai “ngồi đồng” trong quán- như một người mẹ chia đều những miếng bánh cho bầy trẻ háu ăn. Và lạ lùng làm sao, chúng tôi cảm thấy an lòng để không bận tâm về ngày mai ra sao, một khi không có nàng ngồi trước mặt. Chúng tôi cũng không mượng tượng ra một lúc nào đó, người con gái không phải là một đóa hoa được cắm lặng yên trong bình sứ, mà nàng sẽ đi về nơi khác, như một con sáo bay ra khỏi lồng. Để lại ưu tư muộn phiền trên vai những gả con trai tập làm người lớn.

Riêng tôi, có lẽ tôi sẽ đau khổ nhiều hơn những đứa khác. Phải vậy không? Tôi sẽ như thế nào một khi không còn thấy ánh mắt và nụ cười kia? Sự đau khổ mà ngày đó tôi cường điệu nghĩ rằng khi không còn nhìn thấy nhau, người ta sẽ không thể sống được. Những cơn mưa sẽ bay dài qua phố làm ướt át trái tim và làm thẩm thấu nỗi buồn.

Mùa xuân đó nàng đi lấy chồng thật. Sự đau khổ chỉ dấy lên một lúc rồi chìm lắng nơi những đứa con trai khờ khạo. Chúng lại tiếp tục tìm kiếm một chỗ ngồi khác và một hính ảnh yêu kiều khác. Còn tôi, chắc không dễ dàng.

Có lẽ phãi còn lâu lắm tôi mới quên được nàng. Tình yêu điên khùng (mà sau này tôi mới nhìn ra) đã suýt giết chết sự mơ mộng mới vừa nẫy mầm. Ðâu đó phố núi châm đèn xua đuổi một ngày vui. Tiếng chuông nhà thờ Lớn vang lên từng hồi như truy điệu một cuộc tình phờ phạc. Ngôi trường có lớp học của tôi, cùng bàn ghế bảng đen vừa lùi lại sau lưng. Gió từ biển thổi về cơ hồ làm se sắt mủi lòng. Có những mùi hương bay qua từ một đài hoa khuất lánh trong vườn, nhưng có khả năng ngào ngạt lâu dài. Tôi trở lại ngồi nơi quán cũ. Trong góc xưa vẫn thường ngồi. Bây giờ cà phê có thêm một chút đường vì cay đắng nhiều quá làm xót xa. Nơi chỗ nàng ngồi, sau quầy tiền là một người đàn ông. Có lẽ mọi người đàn ông trên cõi đời này đều chỉ biết chú trọng tiền bạc và đại diện cho sự keo kiệt, nếu họ luôn luôn ngồi đàng sau những chiếc bàn thu ngân. Mỗi ngày sau khi đêm tàn, họ bình thản xếp từng tờ giấy bạc nhăn nhúm lại cho thẳng thóm, và sẽ không biết đến một hạnh phúc nào khác, ngoại trừ hạnh phúc nghe những tiếng xao động của giấy bạc trên những đầu ngón tay.

Từ những ngày sầu khổ dịu dàng đó, tôi nhập tâm được những bài hát của Trúc Phương. Ðó là hạnh phúc của tôi. Nó bất chợt như tình yêu đã rời xa tôi, bất chợt.

Trúc Phương hình như đặt nhạc chỉ để cho Thanh Thúy hát. Trong đêm tối, giữa bốn vách phên quạnh quẽ một hồn đau, lời ca Thanh Thúy có khả năng cứu rỗi và vực dậy những bóng đời sóng sượt. Vì tiếng hát của nàng bay lên như khói. Lạnh như sông và chảy tràn như sông. Ngày đó, những năm sáu mươi, mà Trúc Phương đã viết được những lời nhạc thần sầu như thế này:

Khi chân đến quê em

Nắng ban mai hôn nhẹ lên khóm hoa tươi

Thoáng thấy em cười vì mùa thương vừa chấp nối

Vẫn biết phút bên nhau sẽ khơi buồn một ngày về…

Và cùng một tàu ấy anh về

Nhưng tìm đâu tiếng đêm qua cho lòng ấm

Ðêm nay cô đơn nghe gió lạnh rót vào hồn

Tàu về đường cũ tiếng hai đêm vẫn còn chờ

Gặp lại người xưa…

(Hai Chuyến Tàu Ðêm)

Lời nhạc mượt mà và trữ tình của ông, đã đi theo tôi nhiều năm sau này. Nếu phải tôn vinh một nỗi đau khôn lớn thì tại sao chúng ta không tôn vinh những gì làm nên cuộc đời trần tục kia. Vì nó sẽ không xóa được niềm đau mà còn làm sưng tấy mọi vết thương lòng? Những đôi tình nhân làm sao để ủ trên môi miệng nhau một chút hơi lửa, một khi gió rét luôn rình rập bên ngoài? Có những kẻ yêu nhau đi trên dòng đời nhưng chợt lạc mất nhau, sẽ hãi hùng làm sao?

(Nhưng tìm đâu tiếng đêm qua cho lòng ấm

Đêm nay cô đơn nghe gió lạnh rót vào hồn…)



Một lần về phép. Trong căn gác trọ đường Nguyễn Thiện Thuật, Bàn Cờ, tôi nghe lại bài nhạc xưa. Không phải âm vọng từ một đĩa hát hay một đài phát thanh. Mà âm vọng từ một người nữ bên cạnh. Nàng gối đầu trên cánh tay tôi, lọn tóc vươn dài chắc cũng đen hơn cuộc đời hai chúng tôi cộng lại. Nàng hát trong tàn đêm với giọng ca khàn đục, rã rời. Không liêu trai như Thanh Thúy nhưng tôi thấy lạnh mõi một bờ vai:

Môi em đang xuân nhưng mắt buồn ngấn lệ tràn

Chuyện đời sầu đắng vấn vương đôi má dịu hiền

Áo em màu tím

Ðậm đà vì là buổi ban đầu ta gần nhau

Nói nhau nghe câu chuyện cũ

Tâm tư cho vơi bao nỗi buồn bước vào đời

Giờ gặp lại nét thắm môi em

Tiếng hẹn hò tìm lại ngày mơ…



Ðêm qua lâu và môi miệng chúng tôi cũng rời xa nhau. Nhưng trái tim tôi và nàng gắn chặt nỗi thổn thức run rẩy. Ðừng đến vội vàng nhé, mùa đông! Vì sẽ không thể nào chúng tôi không thể chia tay, sớm mai. Nàng với một gia đình còn lại phải cưu mang trong khi tôi chưa muốn dừng lại đường bay của một mũi tên giang hồ. Không chắc tôi sẽ trở về lại cùng nàng một lần nửa. Không phải bởi ngăn cách hay tình yêu tàn lụi, mà bởi vì người này quá mờ nhạt trong người kia.

Bài hát cũ như màu lá vàng trên đất. Sài Gòn ngậm mùa xuân trong ngực tàn phai những tiếng cười. Tôi trở về Ðà Lạt sau mấy ngay phép. Bốn tiếng đồng hồ ngối bó gối trên chuyến xe đò Minh Trung, qua những rừng cao su, qua những sườn đồi đất đỏ. Tưởng tượng về nàng. Tôi đã vô tình xen giữa đời nàng và làm nàng đau khổ. Mới hôm qua chúng tôi còn chia xẻ với nhau một khoảng trời đã vỡ. Những vì sao lung linh nhìn xuống sao giống như ánh mắt em cười. Dù kiêu kỳ nhưng chứa chan lời trìu mến. Giọt mô hôi lạnh chợt rớt xuống gối chăn, rớt xuống những tan hoang làm thức giấc đêm dài. Và tình yêu cũng ngỡ ngàng không kém.

3.

Mùa xuân đến rồi mùa xuân đi. Ðến không chào và đi không từ giả. Nhưng điều đó không làm cho buổi sáng hôm nay mất đi vẽ lảng mạng khi tôi từ quán cà phê trở về. Cơn mưa hồi đêm làm ướt đẩm mặt đường dẫn vào công viên đang được trồng trọt lại. Trên lối đi dành cho người đi bộ, ai đó đã treo những chùm bong bóng đủ màu. Gió mùa thổi lạnh hai vai trở trăn một ngày giông bão?

Khi tôi còn trong lính, những năm 1966, 1967, những bài hát của Trúc Phương thường được nghe trong những quán cà phê quen. Bây giờ, tôi vẫn cảm nhận được những tình tự nóng hổi như ngày mới lớn, từ những ca khúc của ông.

Theo Hoài Nam, người phụ trách chương trình 70 Tình Ca Việt Nam trên đài SBC, Úc Châu, thì Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiện Lập, sinh năm 1939 (?) tại xã Mỹ Hòa, quận Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Bình, Việt Nam.

Ông từng được mệnh danh là ông vua của thể điệu Boléro, vì đa số nhạc khúc của ông được làm trong thể điệu này. Bản Tàu Đêm Năm Cũ được giới thưởng ngoạn xưng tụng là bài Boléro hay nhất, ăn khách nhất trong những bản nhạc trữ tình ngày đó. Hai sáng tác đầu tay được viết năm 1958 là “Chiều Cuối Tuần” và “Nửa Đêm Ngoài Phố” của ông lập tức được nổi tiếng và được đón nhận như một hiện tượng thời đó.

Cuộc đời của ông buồn nhiều hơn vui. Vì ông là một nhạc sĩ được coi là thành công trong sự nghiệp sáng tác nhưng không thành công về tài chánh. Gần hơn 30 ca khúc viết trong lúc sinh thời, người nghe đều cảm nhận được sự day dứt và tan vở từ một tình yêu không tròn trịa. Những lo lắng và hân hoan trộn lẫn vào nhau để làm nên những tình khúc để đời. Vi  đó là những tình khúc viết cho con người, chứ không phải viết cho một chế độ nào hết.

Sau 1975 ông bị kẹt lại và sống trong túng thiếu. Năm 1979 ông vượt biên không thành công. Bị tù và sống tiếp những ngày nghèo khổ. Ông sống lang thang ban ngày và ban đêm ngủ trong những quán gió bên đường hay những góc tối rã rời. Xa cảng miền Tây, từng là “hộ khẩu thường trú” của ông trong suốt một thời gian dài. Trong một cuộc phỏng vấn (?) từ trung tâm Thúy Nga, ông cũng tiết lộ rằng ông… “chưa bao giờ bị đói, nhưng cũng chưa bao giờ được no”.

Người ta hát nhạc của Trúc Phương thường xuyên ngoài đời, tại hải ngoại, nhưng không biết có ai nhớ tới một nhạc sĩ tài hoa sinh bất phùng thời? Người ta hưởng thụ no đầy và rời rộng những tình ca như hưởng thụ dễ dàng một hạnh phúc, nhưng mấy ai nhớ tới người làm ra những tình ca lộng lẫy đó từng sống trong nghèo túng và cô độc? Cái thuở mà tình yêu đã thăng hoa, đã nhức nhối trong lòng của bạn và tôi, thì người nghệ sĩ đã không cần thiết một lời vinh danh. Vì những nốt nhạc viết xuống mỗi ngày, trên những trang lòng đau khổ, như nhịp đập thỏa hiệp và thủy chung với đời.

Trúc Phương nằm xuống và chia tay với thế giới trần tục trong một buổi sáng năm 1996, tại xa cảng miền Tây. Gia tài, để lại không có gì khác ngoài chiếc chiếu dưới lưng và đôi dép buồn bên cạnh. Buồn như những bản tình ca ngày còn sống…













VỌNG PHU

NGUYỄN QUỐC KHƯƠNG



Con chưa từng thấy đá vọng phu
Nhưng con thấy Mẹ chờ Ba từ lâu lắm
Đôi mắt Mẹ không nhìn về phía biển
Màu u hoài nhìn về phía xa xăm...


Sau những lời chúc tụng trăm năm
Sau niềm vui là nỗi buồn muôn thuở
Vọng phu chẳng buồn đâu vì vọng phu là đá
Còn Mẹ buồn bao năm tháng đi qua

Ở nơi nào Ba có biết chăng Ba ?
Nước mắt Mẹ rơi khiến đêm dài thổn thức
Những sợi tóc đen đang len lén bạc
Môi Mẹ cười không thấy dáng ngày xưa ...

Nỗi khổ đau Mẹ đã có thừa
Giờ bên ai Ba đang hạnh phúc
Giờ bên ai giá Ba biết được
Mẹ vẫn chờ chồng mà không hóa vọng phu .

Friday, May 25, 2012


NÓ CỦA TÔI

NHƯ LY


Nó hơn tôi hai tuổi, cao hơn nửa cái đầu, học trên hai lớp, ở cạnh nhà, cách nhau chỉ một dậu mồng tơi.
Tôi và Nó chơi rất thân. Nó bảo vệ tôi giống như một người anh. Mỗi khi tôi bị bọn nhóc khác chọc ghẹo, Nó luôn đứng ra che chở, nên thường bị ăn đòn lia chia. Mặc dù Nó rất trầm tính, nhưng ai đụng đến tôi là Nó ăn thua tới cùng. Riêng tôi, tôi coi Nó như một người bạn ngang hàng, để lấy cớ ăn hiếp, đì tối đa, tơi tả, te tua.
Nó không có anh chị em nên rất thích chơi với tôi. Phần tôi, tôi cũng là con một trong gia đình nên hai đứa chơi thân và hạp nhau lắm lắm. Tôi thì khôn trước tuổi, còn Nó thì tánh nết khù khờ, tôi bảo sao Nó nghe vậy, luôn luôn làm vừa lòng tôi, nhưng vì hiền lành và khờ quá cũng hay làm tôi bực mình. Nhưng lạ một chỗ là với những đứa bạn hàng xóm khác, thì Nó không bao giờ chịu nhịn, chỉ chịu thua có một mình tôi thôi, với tôi thỉnh thoảng, tôi mới thấy Nó thông minh đột xuất một lần.
Chúng tôi chơi nhiều trò chơi với nhau, vui ơi là vui, và phần thắng lúc nào cũng thuộc về tôi 100%.
Có một lần, vườn cây trái nhà cuối xóm vừa chín tới, tôi canh lúc buổi trưa, chủ nhà đang say ngủ liền dụ nó: “Ê... mày cao, chân dài, trèo giỏi, mày leo cây mận nhé? Mận nhà này ngọt vô cùng, ông bà già này ngủ trưa mê lắm, mày tha hồ mà hành động. Mày chỉ việc leo lên hái trái và quăng xuống, còn tao... thì tao can đảm, hy sinh đứng ở dưới này, canh chừng và giữ bao, hai con mắt phải lanh lẹ, láo liên dòm ngó nên cũng mệt không kém, mày chịu không?
Không biết lúc ấy trí khôn Nó nghĩ thế nào mà Nó anh hùng nhận nhiệm vụ ngay. Những khi chúng tôi thành công, thì trúng mánh lớn với một bao ny-lông to tổ bố đầy mận ngọt. Tôi lại chỉ huy Nó khệ nệ ôm bao đựng đầy trái chạy bay lên đỉnh đồi sau nhà, nằm lăn từ bãi cỏ này tới bãi cỏ khác, miệng thì nhai nhóp nhép, tay thì chuyền cho nhau những "chiến lợi phẩm" vừa thu hoạch được, xơi đến quả cuối cùng. Sau đó, hai đứa chúng tôi rủ nhau cùng nhảy xuống bờ ao gần đó nghịch ngợm cho mát dưới ánh nắng gay gắt của buổi trưa hè oi ả. Quả là thú vị thật, những lúc ấy chúng tôi trông "đen như mọi", Mẹ tôi thường bảo thế!
Tuy vậy, cũng có đôi lần phi vụ ăn trộm trái cây của chúng tôi lại bị bể mánh. Những lần như thế là do chủ vườn cây có nuôi chó trong nhà, những con chó hung dữ, dữ hơn cả tôi nữa (tôi thầm nghĩ như vậy) nhào ra sủa oang oang thấy mà ghét, cho dù tôi đã đứng yên chịu trận, chẳng dám nhúc nhích. "Nếu ai mà bắt gặp tôi lúc đó hẳn sẽ thấy mặt tôi không còn một chút máu, phải khen lấy khen để rằng tôi có khuôn mặt dễ thương vô cùng tận". Ấy thế mà cái mặt đáng thương của tôi vẫn không làm cho lũ chó cảm động im tiếng mà lại càng sủa nhặng xị lên nhiều hơn, vậy mới chết cơ chứ! Vừa thấy chủ nhà lấp ló ở cửa, tôi đã can đảm ba chân bốn cẳng bỏ chạy ngay (chứ nếu là kẻ yếu bóng vía thì đã đứng tim chết trân từ lâu rồi!).
Tôi vừa chạy vừa ngoái cổ nhìn lại phía sau thì thấy Nó của tôi, thân vẫn còn treo lủng lẳng trên cây trước khi bị chủ nhà lấy cây thọc té xuống lộn ngã trên sân. Sau đó, họ nhào vô túm cổ và tát cho Nó vài cái rõ kêu hoặc nhéo lên má và tai thật đau trong khi tôi thì co giò chạy một mạch lên ngọn đồi, chờ Nó trở lại! Tàn binh của tôi trở về với khuôn mặt thê thảm, đỏ tía cả hai tai và má sau một trận đòn khốc liệt.
Ôi!!! trông nó mà tôi héo hắt cả cõi lòng! Tôi giả vờ mang cái mặt thật buồn của một ngày đưa đám! Sẵn sàng chia sẻ nỗi đau muộn màng với Nó, không dám nói một câu, không phải là tôi sợ Nó chửi vì Nó chẳng bao giờ hé môi chửi tôi, có lẽ nó nghĩ rằng nó sinh ra là để gánh những gì tê tái trên đời dùm cho tôi chăng? Hay kiếp trước nó mắc nợ tôi- một đứa con gái có chút máu du côn trong người. Tôi ngồi nhìn nắng chiều mà ngậm ngùi cho hai đứa đã toi mất một kế hoạch to tướng!
Mỗi khi đi học, tôi có cái tật khi leo lên xe đạp là nhắm mắt, nhắm mũi đạp, xem những ổ gà như đồ bỏ, thành thử tôi bị té hoài đến méo cả xe, rách cả người! Mẹ tôi nói mãi không được nên bà phạt không cho đi xe nữa và thế là Nó nhận thêm một nhiệm vụ mới là đưa đón tôi mỗi ngày hai buổi, bất kể nắng mưa, đèo tôi đàng sau lưng. Tội nghiệp cho thằng bé ốm nhom ốm nhách mà cứ ráng cong lưng chở tôi, miệng thở hào hển mỗi khi leo dốc, trong khi đó tôi thì vô tư hát ca ư ử, mặc Nó phờ râu, mồ hôi ướt đẫm. Bởi biết thế, tôi khôn lắm cơ, mỗi lần được Nó chở là tôi chờ đến khi ra ngoài ngõ mới nhảy lên xe, không thôi mẹ Nó trông thấy thì bà sẽ cấm tiệt Nó chơi với tôi, rồi xót thương cho đứa con trai, đứt ruột đẻ đau, dại khờ triền miên của mình, và như thế tôi sẽ phải lầm lũi cuốc bộ một mình đến trường, đếm từng viên đá sỏi rong rêu muộn phiền!
Theo tháng ngày trôi, tôi đã nhớn, dịu dàng và đàng hoàng ra phết. Mỗi sáng đi học đều phải mặc áo dài tươm tất và vẫn dùng xe đạp để đến trường. Nhưng bây giờ, thay vì đi chung xe đạp thì hai đứa chúng tôi mỗi đứa đạp một chiếc. Giỏ xe của tôi mùa hè chất đầy hoa phượng, trông thật đẹp. Tình cảm giữa Nó và tôi vẫn gắn bó như thuở còn bé xíu. Vào những đêm trăng sáng, Nó hay mang đàn ra ngồi sau hè vừa hát vừa đàn bâng quơ. Tiếng đàn trỗi lên nghe thật du dương...


Những lần như thế, chắc hẳn Nó đoán biết tôi sẽ đứng đằng sau hàng rào để lắng nghe cho nên giọng hát của Nó lúc ấy nghe có hồn lắm cơ. Ừ, phải công nhận nhìn kỹ Nó cũng đẹp dzai lắm chứ! Còn tôi, tôi của thời bấy giờ, trổ mã con gái thì tóc không còn cắt tém dựng đứng và nồng nặc mùi chua lét của mồ hôi và nước ao nữa, mà đã dài và đen huyền. "Những lọn tóc óng ánh, thẳng tắp trông cứ như làn mây", nó thường bảo thế, nhưng chưa dám vuốt tóc tôi lấy một lần.

Những tháng ngày thơ mộng ấy chấm dứt vào ngày 30-04-1975, cái ngày hai đứa chúng tôi chưa kịp biết yêu, chưa biết lo toan cho tương lai. Ngày đó cả nước tôi nhốn nháo, tan hoang và đổ nát. Những chia ly, mất mát, đổ ập tới cùng một lúc. Căn nhà của tôi cư ngụ ở gần phi trường Tân Sơn Nhất nên gia đình tôi đã tận mắt chứng kiến bao cảnh người chen chúc, đạp cả lên nhau để được leo lên máy bay di tản. Bố Mẹ tôi lúc ấy chưa có ý nghĩ phải bỏ nước ra đi. Còn gia đình Nó, thì phải tất tả dọn về quê Nội.
Mãi sau này, Bố Mẹ tôi thấy không khí trở nên khó thở, mọi tự do không còn như trước nữa nên đã quyết định vượt biên, và kể từ đó, chúng tôi hoàn toàn mất tin tức về nhau. Nói cho ngay, trong thời buổi cả miền Nam hoang mang và hấp hối, chẳng có đứa nào trong hai chúng tôi có thời gian để bận tâm nghĩ đến việc sẽ liên lạc với nhau.
Cho đến bây giờ, ở phương trời xa xôi này, tôi vẫn nghĩ và nhớ tới Nó (dù biết rằng mình nay đã trở thành một phụ nữ, nhưng ... trong đầu óc tôi lúc nào cũng in đậm hình bóng "Nó của tôi"). Những kỷ niệm êm ái, ngọt ngào của thời thơ ấu không bao giờ có thể phai nhạt trong tâm tưởng tôi. Tôi tự hỏi Nó giờ này không biết hiện đang ở đâu? làm gì? đời sống ra sao? Nó đã có người yêu hay vợ con gì chưa nhỉ? v…v...
Dù cho Nó có như thế nào, điều tôi luôn nghĩ chắc là Nó cũng sẽ không thể quên được tôi, như tôi vẫn luôn nhớ về Nó. Ví dù người bạn đời bên cạnh Nó có đẹp đi chăng nữa, cũng sẽ không thay thế được tôi trong lòng Nó đâu, phải không nhóc tì kia ơi?... Biết sao không? Bởi vì cái bản tính cà chua và chút gì đó ngang tàng, ngông ngông ở tôi (bây chừ thùy mị lắm Nó kia ơi), mà đã làm cho nó ngay từ bé đã chẳng thèm chơi với bất cứ đứa nào trong xóm, ngoài tôi ra.
Nó của tôi ơi, đoản khúc này xin viết riêng cho hai đứa mình của một thời thơ mộng nhé...Hãy sống cho hạnh phúc và bỏ kỷ niệm này trang trọng vào một góc nhỏ xíu của trái tim nha Nó…

HỒI ỨC TẶNG CHA MẸ

NGUYỄN TRUNG KIÊN

(Việt Nam)




Không thể nào con quên được ngày xưa
Cha ngồi quạt để Mẹ ru con ngủ.
Cánh võng chao đổ mùa hè ra cửa
Tiếng đàn ve đệm nhạc khúc à ơ...

Con giữ gìn vị ngọt tuổi ấu thơ
Như viên kẹo ngậm cả đời không hết.
Có ai dạy đâu mà con biết
Sẽ chẳng còn gì khi Cha, Mẹ xa nhau .

Rồi một ngày con không hiểu vì đâu
Nước mắt chảy lặng thầm về hai phía.
Long Quân- Âu Cơ, lên rừng- xuống bể.
Để đàn con ngơ ngác giữa Mẹ-Cha.

Con muốn ngã vào cả hai cánh tay Cha
Con muốn uống cả đôi dòng sữa Mẹ.
Tình cảm ấy chẳng thể nào chia sẻ
Như võng đong đưa không chỉ một đầu dây.

Con lớn lên thiếu thốn một vòng tay,
Như dòng sông cả hai bờ đều lở.
Mặt nước rộng đời mênh mông nỗi sợ
Một cánh bèo níu kéo tuổi thơ xa.

Con lớn lên ai cũng bảo giống Cha,
Người yêu con thì lại hiền như Mẹ.
Con chỉ sợ có một ngày như thế,
Phải lau giùm nước mắt trẻ chia hai.

Con đã đi qua những tháng năm dài,
Chân không thể bước ra ngoài nỗi nhớ.
Tuổi ấu thơ vẫn từng ngày nhắc nhở:
Có một thời...
Cha Mẹ đã...
Yêu nhau.

Thursday, May 24, 2012


ĐÀ LẠT TRỜI MƯA

phạmtínanninh



Tôi đến Đà Lạt đúng vào một ngày mưa. Mưa tầm tã. Ngồi trong nhà Thủy Tạ, nhìn những hạt mưa bay giăng kín rừng thông, phủ mờ khu phố Hoà Bình, và rơi lả tả xuống mặt hồ Xuân Hương, tôi mơ hồ như những giọt nước mắt của  người góa phụ đã từng một thời nhan sắc.

Người con gái vừa đến gặp tôi làm cho tôi mỉm cười với sự so sánh lạ lùng này. Bởi cô ta cũng xinh đẹp, và dù có nở nụ cười tỏ ra mừng rỡ khi chào tôi, vẫn không giấu được nét buồn trong đôi mắt. Một nỗi buồn có cái gì xót xa sâu lắng lắm.

Tôi đã đến thành phố này nhiều lần. Lần cuối cùng vào mùa Giáng Sinh năm 1970, khi đơn vị tôi may mắn được lệnh về đây phối họp hành quân giữ an ninh cho một khóa Võ Bị làm lễ ra trường. Bao nhiêu năm trong rừng núi tây nguyên gió lạnh mưa mùa, rồi xuống bờ biển Phan Thiết với những động cát trơ trọi nóng như lửa đốt, bất ngờ được về Đà lạt, cho dù chỉ sau một ngày ở thành phố, đơn vị tôi lại được đổ xuống những rừng thông xa tít, nhưng đám lính tráng bọn tôi vẫn có cái cảm giác như được đi nghỉ mát. Người ta nói đúng, Đà Lạt dễ thương như những cô gái với gò má trắng hồng và đôi môi mộng đỏ để ai một lần lên xứ Hoa Đào mà lòng không vấn vương. Đà lạt cũng là nơi có nhiều huyền thoại về những mối tình đẹp và buồn của các cô sinh viên với những chàng trai mang alpha đỏ theo nghiệp kiếm cung, mà tôi đã đọc được trong những bài thơ thật buồn của Lệ Khánh từng vang tiếng một thời…

Nhưng đó là Đà Lạt của ngày xưa. Còn hôm nay tôi đến Đà Lạt, với ngổn ngang những nỗi buồn nặng trĩu trong lòng, và Đà Lạt bây giờ chỉ là một thành phố chết.

Tôi ra tù, trong thời gian còn bị quản chế, trong túi không có bất cứ một tờ giấy nào. Ngay tấm “Giấy Ra Trại” cũng đã bị công an xã giữ. Nhờ thằng em cùng đơn vị cũ, có lò bánh mì ở Tháp Chàm, gởi tôi theo một chiếc xe bộ đội nhận mối chở bánh mì với tiền thù lao khá, tôi mới có mặt ở đây. Anh tài xế sau khi giao mấy thùng bánh mì, còn gởi tôi cho cô “chủ nhiệm” quán Thủy Tạ (bây giờ là của nhà nước), bảo là ông anh họ, để tôi yên lòng không bị hỏi giấy tờ. Quán vắng tanh.Tôi chọn cái bàn nhỏ xa phía trước và gọi hai tách trà nóng. Tôi cũng chỉ đủ tiền để trà hai tách trà này.

- Anh chờ em có lâu không ?

Tôi giật mình khi nghe cô gái hỏi

- Không sao, tôi chờ cũng đã khá lâu, nhưng được gặp chị hôm nay là tôi mừng lắm rồi.

Điều mà ai cũng ái ngại khi phải mang tin buồn đến cho một người. Đặc biệt người đó lại lại là một cô con gái đẹp, như cô gái đang ngồi trước mặt tôi đây. Tôi dè dặt:

- Chắc chị đã biết, như trong lá thư tôi gởi. Tôi là bạn tù của Thống, và hôm nay muốn gặp chị là để nhắn lại những điều Thống đã nhờ tôi.

-  Em biết là anh Thống đã chết từ năm 1978, nhưng mãi đến năm ngoái , em mới được phường đưa “Giấy Báo Tin”. Em không biết làm sao báo cho mẹ anh ấy biết. Bà ở bên Mỹ nhưng em không liên lạc được.

Tôi bất ngờ, nhưng chợt thấy một chút yên lòng khi nghĩ là cô sẽ không còn đột ngột nhận một tin buồn từ chính miệng của tôi.

- Chị đã biết tin buồn về Thống. Như vậy cũng là may, chứ không phải người tù nào chết mà người nhà cũng được báo tin. Hôm nay, dù hoàn cảnh khó khăn, tôi cũng phải tìm gặp chị đề nói lại cùng chị những lời trăn trối cuối cùng, và trao cho chị những kỷ vật mà anh Thống nhờ tôi trao lại chị.

- Cả tuần nay lòng em rất bồn chồn, mong sớm được gặp anh. Vì em không biết anh Thống chết ở đâu và mồ mả ra sao. Nhiều lần nằm mơ, em thấy anh Thống, nhưng chưa bao giờ nghe anh ấy bảo là anh đã chết.

Tôi lấy trong túi ra để trên bàn một sợi dây đeo một tấm ảnh nhỏ được lồng vào trong cái khung có hình trái tim đẽo bằng gỗ mun -loại gỗ quý mà chúng tôi thường tìm được ở khu rừng Việt Bắc- một chiếc vòng nhỏ làm bằng nhôm xinh xắn, có khắc đậm sáu chữ Lê Minh Thống & Hà Nhất Anh, và trịnh trọng đứng lên đưa cho cô.

Nhất Anh chính là cô gái, và Minh Thống là tên một người bạn tù của tôi. Anh đã chết sau gần hai năm bị chuyển ra ngoài Bắc.

Tôi gặp Thống ở trại Lào Cai, khi hai thằng vừa trong nam mới chuyển ra. Sau hơn một năm cả hai cùng chuyển về trại Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn và may mắn được “biên chế” về cùng một tổ. Thống tốt ngiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, được chuyển sang không quân, lái phản lực. Trong thời gian học trường Võ Bị, Thống quen Nhất Anh, khi ấy đang là sinh viên của trường Chính trị Kinh Doanh. Thống chỉ còn bà mẹ già và cô em gái ở Sài Gòn. Cuộc tình của cô sinh viên Đà Lạt và chàng cựu sinh viên sĩ quan alpha đỏ kéo dài khá lâu. Hai người đã làm lễ hỏi. Nếu Thống không sang Mỹ học phi hành và nếu không có ngày 30 tháng tư, thì hai người đã làm đám cưới.

Những ngày cuối cùng khi Sài gòn hấp hối, Thống được bạn bè thu xếp hai chỗ trên trực thăng để bay ra hạm đội Mỹ, nhưng Thống lại dành cho mẹ và cô em gái. Gởi mẹ và em cho thằng bạn thân, Thống nói dối với mẹ là anh sẽ đi sau.

Thống liều lĩnh tìm mọi cách chạy về Đà lạt. Chưa kịp đón Nhất Anh, thì Sài Gòn mất. Thống nằm ở nhà Nhất Anh một tuần rồi ra trình diện “uỷ ban quân quản”, nhưng người ta chỉ cấp giấy chứng nhận và ghi là phải về Sài Gòn trình diện chính quyền địa phương ngay. Trở lại Sài Gòn, nhà bị tịch thu, Thống phải ở ké nhà một người bà con trước khi vào trại cải tạo.

Mấy năm trong tù, Thống có liên lạc được với Nhất Anh . Nhưng vài tháng mới nhận được một lá thư ngắn, chỉ hỏi thăm vài câu và khuyên “học tập tốt để sớm được khoan hồng về với nhân dân”. Bao nhiêu nhung nhớ yêu thương đều phải dấu kín ở trong lòng. Trong tờ khai lý lịch, Thống ghi Hà Nhất Anh là vợ, cũng là người thân duy nhất, và địa chỉ của Nhất Anh cũng là nơi anh xin cư trú sau này .

Thống to con đẹp trai, nhưng dường như tình yêu dễ làm cho Thống yếu lòng. Có những ngày đi chặt nứa trong rừng, Thống chỉ ngồi khóc và thì thầm gọi tên người yêu. Mấy lần không mang về đủ nứa, bị phạt cắt bớt một nửa phần ăn vốn đã ít oi, nhưng vẫn không ngăn được nước mắt của Thống. Dường như khi lòng đang thương nhớ ai, thì cái đầu không còn điều khiển đôi tay được nữa. Nhiều hôm tôi phải vận động anh em nhường bớt một chút phần ăn cho Thống, và chia nhau đi lấy thêm nứa cho Thống có đủ chỉ tiêu để không bị phạt.

Thống còn trẻ, nhưng cũng như hầu hết sĩ quan xuất thân từ Đà Lạt, dù ở binh chủng nào cũng kiêu hùng và thăng tiến rất nhanh. Thống nhỏ hơn tôi sáu tuổi, nên xem tôi như người anh. Có điều gì vui buồn, Thống tìm tôi chia sẻ. Tôi luôn an ủi và khuyến khích để anh có thêm nghị lực. Thống có gì khó khăn tôi sẳn sàng hết lòng giúp Thống.

Sau này, đội tù của tôi được phân công đi lấy gỗ về xây dựng hội trường. Họ bắt chúng tôi phải tìm những cây gỗ lớn và thẳng. Có những thân cây lớn đến hai vòng tay ôm không hết. Trời mùa đông với những cơn mưa phùn không dứt, nên những con đường mòn trơn như mỡ, chúng tôi chia từng nhóm hai mươi người vừa kéo vừa bẩy cho từng thân cây lăn theo những con đường mòn ấy từ trên núi cao lao xuống suối để cho nó trôi về bên hông trại.

Ăn uống quá thiếu thốn, đám tù chúng tôi triền miên trong cơn đói. Sức ngày càng yếu mà phải lao động quá nặng nhọc, nên chỉ sau một tuần lấy cây, người nào cũng mệt lả. Một hôm đang lấy sức bật một thân cây xuống bờ suối, Thống mệt quá nên lảo đảo rồi ngã sấp trên thân cây, đúng lúc cây này lăn xuống suối, bật luôn theo Thống. Chúng tôi chỉ còn nghe tiếng hét của Thống trước khi anh bị văng xuống lòng suối nằm sâu dưới vực.

Trời nhá nhem tối, cả hơn bốn mươi thằng tù chia nhau trèo xuống suối đi tìm Thống. Gần nửa giờ sau chính tổ của tôi tìm được Thống. Anh nằm bất động bên bờ suối. Rất may là ở một nơi không có đá. Thống thoi thóp thở, nhưng không còn cử động được.

Chúng tôi nhanh chóng kết một cái bè gỗ, rồi theo dòng suối, cùng nhau đẩy anh về trại. Sau hơn một tiếng đồng hồ trong trạm xá, Thống tỉnh lại, mở hé mắt nhìn mọi người. Khi nhận ra tôi, Thống thì thào :

- Nếu sau này anh còn sống mà về được, nhớ tìm giùm Hà Nhất Anh và nói là em xin lỗi nàng. Mong nàng hãy sớm lấy chồng và quên em đi.

Tôi nắm chặt đôi vai lạnh lẽo của Thống:

-Thống yên chí, tôi sẽ làm bất cứ điều gì mà Thống dặn dò.

Thống cố gắng mở lớn mắt nhìn tôi như cầu khẩn:

- Nhờ anh giữ lại cái vòng nhôm trong balô và tấm ảnh em đang mang trong cổ này, trao lại cho Nhất Anh. Nhớ nói giùm là em xin lỗi cô ta… xin lỗi cô ta …

Ngày hôm sau, một buổi chiều mưa buồn ảm đạm, dưới sự kiềm soát của hai vệ binh, tôi cùng ba người bạn tù đẩy xác Thống trên một chiếc xe “cải tiến” ra chôn dưới triền núi, bên một hốc đá. Chúng tôi đào huyệt đúng vào lúc cơn mưa trút xuống. Huyệt đào tới đâu thì nước ngập theo tới ấy. Tôi năn nỉ xin hai vệ binh cho chúng tôi tìm một nơi khác cao hơn, và chờ cơn mưa tạnh bớt, nhưng không được đồng ý, mà còn bị quát tháo, bảo phải “chôn khẩn trương lên mà về ngay”.

Tôi phải ngồi đè trên xác Thống, lềnh bềnh trên nước, để cho ba người bạn tù kia lấp đất.

Chuyện xảy ra đã hơn sáu năm rồi. Thời gian có biết bao sự đổi thay. Tôi cũng đã nghe và chứng kiến không ít những điều phản trắc. Không biết bây giờ Nhất Anh đã có chồng chưa và trong cảnh đổi đời kéo theo bao cay đắng, liệu trong lòng cô có còn lưu luyến chút tình xưa.

Đắn đo giây lát rồi tôi cũng quyết định phải nói hết những gì tôi biết và nhất là những điều mà Thống, trước khi trút hơi thở cuối cùng, đã nhờ tôi nếu còn có dịp trở về, hãy nói lại cùng nàng.

Nghe tôi kể xong mọi điều, Nhất Anh vẫn ngồi yên bất động. Im lặng một lúc tôi nghe tiếng nàng khóc. Hai tay nắm chặt các kỷ vật mà tôi vừa trao lại cho nàng. Ngoài trời những cơn mưa càng vần vũ. Tiếng mưa như thấu hiểu được nỗi niềm, từng đợt trút xuống mái nhà Thủy Tạ làm át đi tiếng sụt sùi, để cho nàng khóc. Tôi cũng đã không cầm được nước mắt.

- Em cám ơn anh, và xin lỗi … em đã không nén được xúc động.

Tôi cũng kịp lấy lại bình tỉnh và tìm lời an ủi nàng :

- Dù sao mọi việc cũng đã qua rồi. Sau cái ngày nước mất nhà tan, biết có bao cảnh chia lìa tang tóc. Thôi thì tôi cầu mong Nhất Anh sớm nguôi được nỗi buồn này và có thêm nhiều nghị lực để mà bước tới, như lời trối trăn của Thống. Nhất Anh còn trẻ mà, còn cả một con đường thật dài trước mặt. Còn tôi, trong hoàn cảnh này, cũng chẳng biết rồi đời sẽ ra sao. Thôi đành phó cho trời đất đẩy đưa.

Nhất Anh vẫn ngồi bất động, không nói lời nào. Nhìn đồng hồ treo trên vách, nhớ tới lời hẹn của anh tài xế, tôi khẽ gọi nàng:

- Chị Nhất Anh ! Chỉ còn 15 phút nữa là anh tài xế sẽ quay lại đón tôi. Sau này nếu chị có cần gì ở tôi, cứ liên lạc với tôi nghe!

Tôi nói cốt chỉ để an ủi thôi. Chứ tôi thì còn khả năng gì mà giúp nàng. Hơn nữa thời buổi nhiễu nhương này, dễ gì mà liên lạc được với nhau.

Nhất Anh lấy tay lau nước mắt, ngước lên nhìn tôi, ngần ngừ vài giây rồi lên tiếng:

- Nhờ anh vẽ lại và hướng dẫn cho em nơi chôn cất anh Thống. Sau này biết đâu có dịp may, em sẽ tìm ra thăm anh ấy.

Tôi đứng lên đến quày trả tiền hai tách trà, và xin một tờ giấy trắng. Tôi ngồi vẽ khá tỷ mỷ và hướng dẫn cho Nhất Anh con đường đến trại tù, và mộ của Thống nằm bên hốc đá trên triền núi, phía sau trại tù chừng một cây số. Cũng may là có cái hốc đá lớn duy nhất, để có thể định hướng được ngôi mộ nằm ở nơi nào giữa vùng rừng núi bao la.

Nhất Anh đứng dậy mặc lại áo mưa, xúc động nói lời chia tay, rồi đạp xe đi. Tôi nhìn theo bóng dáng nhỏ nhắn của nàng lảo đảo xiêu vẹo dưới cơn mưa tầm tã mà ngậm ngùi lo âu cho số phận của nàng. Tôi nghĩ có lẽ không bao giờ tôi còn có dịp gặp lại Nhất Anh.

Mùa hè năm ấy, vợ chồng tôi sang Cali thăm mấy cô con gái, nhân tiện chúng tôi đến thăm gia đình ông anh họ ở thành phố biển San Diego. Giáng Sinh năm 1970, nhân cuộc hành quân bất ngờ ở Đà Lạt, tôi có ghé thăm anh chị. Khi ấy anh làm ở trung tâm điện lực Đa Nhim và vợ anh là giáo sư dạy trường Bùi thị Xuân Đà Lạt. Anh chị rời Việt Nam từ những ngày Sài Gòn hấp hối, nên cũng đã hơn ba mươi năm rồi bây giờ anh em mới gặp lại nhau. Anh lớn hơn tôi gần mười tuổi, vừa bà con lại vừa là học trò cưng của ba tôi lúc anh còn học ở trường Pháp Việt, nên anh chị rất quý chúng tôi, nhất quyết bắt vợ chồng tôi phải ở lại nhà anh chị một tuần để cùng đi chơi với anh chị. Sau một ngày đi khắp nơi ở San Diego, chúng tôi đi một vòng sang khu nghỉ mát Cancun bên Mexcico. Đến ngày thứ bảy cuối tuần anh chị rủ chúng tôi đi tham dự buổi họp mặt của Hội Đồng Hương Đà Lạt, tổ chức tại Anaheim, gần khu Little Saigon, nhân tiện sau đó anh chị đưa tôi về lại nhà cô con gái ở Fullerton, cũng rất gần nơi ấy. Gia đình anh được giấy mời với bốn chỗ ngồi. Vợ chồng đứa con trai lớn không đi, nhường chỗ cho chúng tôi. Bảo là chú thím ở tận bắc Âu, lâu lắm mới có dịp gặp nhiều đồng hương.

Không ngờ đã rời khỏi quê hương khá lâu, nhưng những người Đà Lạt còn giữ cái tình đồng hương đậm đà như thế. Cả hội trường khoảng một ngàn chỗ ngồi chật cứng. Nghe bà chị nói là họ đã đến từ khắp nơi trên nước Mỹ và Canada, một số từ Úc và Âu châu. Chưa tới giờ khai mạc, mọi người ngồi nói chuyện líu lo với những tiếng cười nghe như dư âm của một thời trai trẻ. Những cô gái với đồng phục áo dài trắng trong ban tổ chức đang chuẩn bị cho bài quốc ca, vẫn còn dáng dấp của Đà Lạt ngày xưa: môi đỏ má trắng hồng .

Chúng tôi ngồi ở dãy bàn đầu dành cho quan khách, cùng với gia đình của hai vị cựu giáo sư Bùi Thị Xuân khác. Trên sân khấu, một cái phông lớn là hình ảnh của khu chợ Hòa Bình và một mảng của hồ Xuân Hương trong sương mù. Tôi thầm phục người họa sĩ Đà Lạt nào đã vẽ bức tranh thật sống động. Tôi có cảm giác như mình đang ở một nơi nào đó trên thành phố thơ mộng một thời này. Ai đó đã nói đúng “người Việt nào ra đi cũng mang theo quê hương”.

Khi nghe cô MC giới thiệu thành phần ban tổ chức cuộc họp mặt hôm nay, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy toàn là phái nữ… Nhưng đến khi chị trưởng ban tổ chức có đôi lời cùng đồng hương, tôi mới hiểu  Buổi họp mặt này là do các cựu nữ sinh trường Bùi Thị Xuân đảm trách.

Đang vui tôi bỗng ngậm ngùi khi một chị trong Ban Tổ Chức lên trình bày về hoàn cảnh thương tâm của nhà thơ Lệ Khánh. Bây giờ tôi mới biết Lệ Khánh là con gái của phó trưởng ty cảnh sát Đà Lạt và có cuộc hôn nhân thật buồn với một nhà thơ quân đội, lại là sĩ quan cấp tá trong ngành Tâm Lý Chiến. Bao nhiêu điều ấy đã đưa nhà thơ nổi danh một thời của xứ sương mù vào bước đường cùng, phải đi bán hàng rong, bán từng trái cà trái ớt trong cơn bệnh hoạn, và đứa con trai duy nhất phải đi ở mướn cho người ta. Ban tổ chức kêu gọi tình thương của những cựu Bùi Thị Xuân, của những người Đà Lạt cũ. Tôi thầm cám ơn tấm lòng của những người Đà Lạt và nghĩ đây là một việc rất nên làm.

Đến phần văn nghệ, cô MC giới thiệu “nhạc phẩm Ai Lên Xứ Hoa Đào với một giọng hát truyền cảm của một Bùi Thị Xuân ngày trước, đã từng làm điêu đứng bao trái tim học sinh, sinh viên Đà Lạt”.

Lời giới thiệu đó không có một chút cường điệu nào. Giọng hát cất lên cao vút làm cả hội trường im lặng trong khi lòng tôi lắng xuống thẫn thờ. Không phải vì giọng hát truyền cảm, mà vì người hát ấy chính là Hà Nhất Anh, người con gái có một mối tình buồn với người bạn tù của tôi ngày trước. Gần hai mươi năm rồi, khuôn mặt có đôi chút đổi thay, nhưng tôi vẫn nhận ra. Cũng với nhan sắc ấy, nhưng với nụ cười rạng rỡ, không còn nét buồn nào đọng trên đôi mắt.

Thấy tôi nhìn đăm đăm lên sân khấu, bà chị đập vai tôi:

- Bộ có quen hay sao mà nhìn dữ vậy ? Hay lại là một người xưa?

Tôi quay lại, đúng vào lúc bài hát vừa chấm dứt. Chờ cho những tràng pháo tay, cùng những tiếng la hét lắng xuống, tôi ôm vai bà chị:

- Đúng là có quen, nhưng không phài người xưa của em, mà là hôn thê của một thằng bạn tù của em, đã chết ngoài Bắc! Chính em là người đã trao lại cho cô ấy những kỷ vật của anh ta, khi em vừa mới ra tù.

- Cô ấy là học trò cũ của chị, để chị gọi cô ấy lại nghe.

Tôi chưa kịp trả lời, thì bà chị đã vẫy tay gọi một cô trong ban tiếp tân nhờ đi mời “ca sĩ Hà Anh”.

Cô đến nhoẻn miệng cười, cúi đầu chào anh chị tôi và các thầy cô giáo cùng bàn, rồi khựng lại khi nhìn vợ chồng tôi, gật đầu nhưng không nói lời nào. Thấy tôi ngồi gần bà chị, nên cô nhìn bà chị như muốn hỏi chúng tôi là ai. Bà chị cười chỉ vào tôi:

- Đã gặp nhau rồi mà không còn nhận ra sao?

Cô nhìn tôi, rồi lắc đầu:

- Xin lỗi, em không nhớ ra .

Tôi có một chút khó chịu trong lòng. Hóa ra người đàn bà cũng dễ quên, ngay cả những kỷ niệm đáng ra phải nhớ trong đời. Giữ lịch sự, tôi nhìn cô:

- Có phải chị là hôn thê của anh Lê Minh Thống? Tôi là người đã trao cho chị những kỷ vật của anh ấy ở nhà Thủy Tạ, khi tôi vừa mới ra tù. Chị không còn nhớ?

Cô ta khựng lại giây lát, nhưng rồi lắc đầu :

-  Xin lỗi , em không nhớ. Có lẽ anh nhầm em với … ai đó!

Cô chào tất cả mọi người rồi vội vã quay về phía sau sân khấu.

Tôi nhìn sang ông anh bà chị nói cho đỡ ngượng:

- Chắc bây giờ chị ta đang hạnh phúc, nên không muốn nhắc lại chuyện tình xưa.

Trên sân khấu, chương trình văn nghệ nối tiếp bằng một hài kịch. Thiên hạ cười ầm ĩ, trong lúc lòng tôi dửng dưng với một chút bẽ bàng. Buổi họp mặt chấm dứt, tôi theo ông anh bà chị bước ra khỏi hội trường. Trong lòng không còn cái háo hức của lúc mới bước vào đây. Trống rỗng và một chút bực dọc.

Tôi đang đứng chờ ông anh bà chị đi lấy xe, thì một bàn tay đâp trên vai tôi . Quay lại, tôi ngạc nhiên khi nhận ra Hà Nhất Anh. Cô đưa cho tôi mảnh giấy, rồi bảo nhỏ, trước khi chạy nhanh về phía hội trường :

- Em xin lỗi, nhưng Anh nhớ phải đến nghe!

Tôi mở vội tấm giấy ra đọc. Chỉ có số điện thoại và địa chỉ, cùng với một dòng ngắn ngủi: “Suốt ngày mai, chủ nhật, em sẽ chờ anh ở nhà“.

Tôi cảm giác có điều gì lạ lắm. Và dường như cô ta muốn dấu mọi người . Nghĩ như vậy nên tôi không nói lại với ông anh bà chị và ngay cả vợ tôi. Ông anh bà chị đưa vợ chồng tôi về Fullerton, rồi hẹn quay lại sáng thứ bảy tới đưa chúng tôi đi thăm mấy người đồng hương và cũng là học trò cũ của cha tôi ngày trước.

Tôi nhờ cô con gái lớn gọi phôn, hẹn đến gặp vào lúc hai giờ chiều chủ nhật. Cô con gái chở vợ chồng tôi tới trước cổng nhà, sau khi xem đúng địa chỉ, bấm chuông, rồi lái xe đi, bảo khi nào cần gọi cellphone, sẽ quay lại đón.

Một ngôi nhà nhỏ, khá xinh, có trồng nhiều loại hoa Đà Lạt, nằm trong khu Fountain Valley yên tĩnh. Người ra mở cổng là một người đàn ông trẻ, khá bảnh trai với hàng ria mép. Anh gật đầu chào, nở nụ cười rất tươi bắt tay chúng tôi, giới thiệu tên, nói năng lễ phép bặt thiệp :

-  Cám ơn anh chị đến thăm. Bà xã em mừng lắm, đợi mong từ sáng tới giờ .

Tôi bước vào sân nhà, với một ý nghĩ vừa thoáng trong đầu: “Được một người chồng như thế, hèn gì cô ta chóng quên mối tình xưa”.

Nhất Anh mang nước ra mời chúng tôi, vui vẻ, thân tình, khác hẳn với Nhất Anh trong hội trường ngày hôm qua. Tôi im lặng, bởi không biết phải nói điều gì, ngồi chờ cô ta lên tiếng trước. Một lúc im lặng, tôi bất ngờ nhìn thấy cô ta khóc. Anh chồng đưa giấy cho cô lau nước mắt .

- Mong anh chị tha lỗi cho em. Ngày hôm qua khi gặp anh, nghe anh nhắc tới anh Thống em xúc động lắm, lại biết chính anh là người đã mang về những kỷ vật của anh Thống nữa. Nhưng hôm qua đông người quá, em không tiện nói.

Tôi đỡ lời :

- Tôi hiểu. Làm sao mà chị có thể quên được mối tình đầu, vừa đẹp lại vừa buồn, nhất là anh Thống đã ở lại và bị chết oan ức cũng vì quá yêu chị. Phải không ?

Rồi quay sang anh chồng, tôi lên giọng như một nhà tâm lý học:

- Ai lại chẳng có mối tình đầu. Và người chồng nào lại không tôn trọng cái kỷ niệm đẹp đó của vợ mình, phải không anh ?

Anh ta không trả lời, chỉ cúi xuống với một chút bối rối.

- Xin lỗi anh. Em không phải là chị Nhất Anh, và cũng không phải là người yêu của anh Thống!

Tôi bất ngờ, vừa ngượng ngùng vừa hụt hẩng khi nghe câu nói của người con gái, mà tôi đã chắc nịch là Hà Nhất Anh. Bây giờ người bối rối lại chính là tôi .

Cô gái hạ giọng :

- Em là em kế của chị ấy và cũng là đứa em duy nhất. Ba má em chỉ sinh có hai đứa con gái. Chị em giống nhau lắm, nên có nhiều người cũng lầm.

Tôi nhìn cô ngờ vực :

- Tôi nhớ ngày hôm qua khi MC giới thiệu chị lên hát, cũng với tên là  Hà-Anh mà? Tôi nghĩ Hà Nhất Anh, nhưng khi qua Mỹ người ta thường bỏ đi chữ lót .

- Đúng ra tên em là Hà Nhị Anh, nhưng bây giờ trong giấy tờ, em mang tên chị em: Hà Nhất Anh, mà Nhất Anh hay Nhị Anh gì sang đây, như anh nói, cũng đều gọi Hà Anh như nhau mà anh. .

Đến lúc này thì tôi không còn hiểu gì nữa. Cô ta đứng lên nhoẻn miệng cười và mời vợ chồng tôi theo cô lên từng trên, cô bảo :

-  Anh chị cứ theo em lên trên này thì hiểu nhiều hơn .

Ba tấm ảnh để trên bàn thờ nhỏ. Tôi nhận ra Thống và Nhất Anh, mặc dù lúc chụp những tấm ảnh này hai người còn rất trẻ. Còn tấm ảnh thứ ba, một người con gái khác, tôi không nhận ra ai. Tôi chưa kịp hỏi thì cô gái lại sụt sùi:

- Chị Nhất Anh đã chết khá lâu rồi anh ạ. Vào một ngày mùa đông mưa tầm tã, chị ấy đạp xe đi đâu không biết, cả nhà chờ cơm tới tối vẫn chưa thấy về. Từ trước chị không bao giờ đi đâu một mình vào buổi tối. Cả nhà em và mấy người bạn hàng xóm chia nhau đi tìm. Em đạp xe đi khắp nơi. Trời mưa lớn quá nên em lạnh cóng. Đường xá vắng tanh không một bóng người. Cuối cùng thì chính em tìm ra chị ấy. Chị nằm bất động bên bờ hồ Xuân Hương, không xa nhà Thủy Tạ bao xa.

Tôi giật mình hoảng hốt :

- Ở gần nhà Thủy Tạ, bên bờ hồ Xuân Hương ? Rồi có tìm được chiếc xe đạp và cái gì nữa không?

- Chiếc xe đạp rớt xuống hồ, ngày hôm sau người ta mới tìm thấy.

- Và chị đã chết ? Tôi hỏi.

- Không, khi ấy thì chị còn sống, nhưng bất tỉnh và mình mẩy thì lạnh cóng. Vào bệnh viện, nửa giờ sau chị tỉnh lại, nhưng rất yếu chưa nói được. Khi thay áo cho chị, em thấy trong túi áo có một sợi dây đeo cổ có tấm ảnh của chị và một chiếc vòng nhôm có khắc tên chị và tên anh Thống.

- Không có tờ bản đồ vẽ trại tù và nơi mộ anh Thống?

- Có chứ ! Chính nhờ tấm bản đồ đó mà vợ chồng em, cách nay ba năm về Việt Nam, ra tận nơi tìm được, rồi thuê người lấy hài cốt của anh Thống mang về chôn trên Đà Lạt . Cám ơn anh đã vẽ cái bản đồ khá chi tiết và chính xác.

- Còn chị Hà Nhất Anh ?

- Hai tuần sau, chị khá hơn nhiều, nói năng tỉnh táo, bệnh viện cho xuất viện bảo về nhà điều trị, bồi dưỡng là chị sẽ khỏe thôi. Nhưng không ngờ về nhà mấy hôm thì lên cơn sốt nặng rồi hôn mê trở lại. Đưa vào bệnh viện thì chị mất. Người ta bảo là chị bị sưng phổi cấp tính. Mà thời ấy có thuốc men gì đâu mà chửa. Trong mấy ngày tinh táo, chị thường nhắc tới anh Thống, năn nỉ ba má em tìm mọi cách đem anh Thống về Đà Lạt, và báo cho mẹ anh ấy biết. Lúc trước bà thương quí chị lắm, nên chị cũng rất thương và lo lắng cho bà, khi em gái anh Thống  vừa quá  trẻ lại vừa yếu đuối. Không ngờ đó lại là những lời trăn trối của chị.

Tôi thầm nghĩ, chính vì đi gặp tôi hôm ấy mà Nhất Anh chết. Chắc cô đã xúc động nhiều  lắm. Lòng tôi chùng xuống. Tôi có cái cảm giác đau đớn như vừa có những nhát chém vô hình nào đó trong lòng mình. Tôi lấy lại bình tĩnh:

- Như vậy là bây giờ mộ của Thống nằm trên Đà lạt .

- Dạ. Anh nằm bên cạnh chị Nhất Anh. Vợ chồng em mua lại mảnh đất tư gần khu rừng Ái Ân. Từ đó anh Thống có thể nhìn thấy Trường Võ Bị của anh lúc xưa và đỉnh núi Lâm Viên mà anh đã từng chinh phục.

- Đồi thông hai mộ. Tự dưng tôi buột miệng.

Đến lúc này tôi mới thấy cô nhoẻn miệng cười:

- Sau ngày 30 tháng 4/75, ở Đà lạt có khá nhiều “đồi thông hai mộ”. Có dịp anh chị về Đà Lạt, ghé lại Rừng Ái Ân hỏi thăm, là người ta biết hai ngôi mộ của anh chị Thống- Anh.

- Thế rồi, cô có liên lạc được mẹ và em gái của anh Thống?

Cô không trả lời, mà lại mời vợ chồng tôi bước sang phòng bên cạnh. Căn phòng rộng, thoáng mát, có cửa kính lớn nhìn ra công viên phía trước. Một bà cụ tóc bạc trắng, nhưng da dẻ hồng hào, đôi mắt sáng, ngồi trên chiếc xe lăn. Khi tôi cúi đầu chào bà , cô gái giới thiệu  :

- Anh này là bạn tù của anh Thống ở ngoài Bắc.

Rồi quay sang tôi :

- Chắc anh ngạc nhiên lắm, đây chính là mẹ của anh Thống.

Bà cụ ôm lấy tôi, nước mắt trào ra trên đôi gò má. Bà hỏi tôi về Thống trong những ngày ở tù và vì sao mà Thống chết. Nhưng tôi chỉ kể vài kỷ niệm về Thống trong những lúc vui  vẻ, và không dám nói cho bà nghe về cái chết thảm thương của Thống. Tôi nói dối là Thống chết vì bệnh kiết lỵ nặng mà nhà tù không có thuốc. Tôi tưởng nói dối như vậy cho cụ yên lòng, không ngờ cụ đã khóc ngất lên. Tôi chỉ còn biết ôm vai bà cụ mà im lặng.

Một lúc sau, bà cụ mới tỉnh táo và kể lại tai nạn xe hơi đã làm chết cô con gái, em Thống và làm tê liệt đôi chân của bà. Nhìn sang cô gái, bà cụ thỏ thẻ :

- Cũng nhờ vợ chồng cháu nó đây mà bác còn sống đến bây giờ.

Nhị Anh nắm tay bà cụ :

- Má coi vợ chồng em không khác gì con ruột của má. Em sang đây sau khi em gái anh Thống chết. Tấm ảnh trên bàn thờ lúc nãy là của cô ấy. Cô nhỏ hơn em tới sáu tuồi. Lúc ấy má đang làm chủ mấy sạp may, đã lo lắng tiền bạc cho em sang đây và cho em tiếp tục học xong đại học nữa. Ngôi nhà này là của má cho vợ chồng em đó chứ.

Vợ chồng tôi chào bà cụ, chúc bà sức khỏe và hứa bất cứ lúc nào có dịp sang Cali, sẽ ghé lại thăm bà.

Khi bắt tay từ biệt vợ chồng Hà Nhị Anh, chợt nhớ tới một điều, nên tôi hỏi cô :

- Khi nãy tôi có nghe chị nói là bây giờ tên tuổi của chị trong giấy tờ lại là tên tuổi chị Nhất Anh. Sao vậy ?

Cô gái vẫn còn nắm chặt bàn tay tôi, kéo tôi ra xa, nhìn quanh rồi hạ giọng :

- Chính nhờ cái giấy của trại tù báo tin anh Thống chết, trong đó có ghi tên chị Nhất Anh là vợ, nên em đã thay chị ấy mà sang đây theo diện dành cho vợ tù nhân cải tạo bị chết trong tù. Em thấy xấu hổ lắm khi phải làm điều gian dối ấy, tội lớn lắm đối với luật pháp Hoa Kỳ, nhưng đó lại là ước mong của mẹ anh Thống, và của cả chị Nhất Anh trước khi chết nữa. Em săn sóc cho má bao nhiêu năm nay, nên má thương em như con gái má. Biết đâu đây là sự sắp xếp nhiệm màu từ chị Nhất Anh - anh Thống? Hơn nữa nhìn em cũng giống chị em lắm, và tên em với tên chị ấy cũng như nhau mà. Nhưng anh nhớ phải tuyệt đối giữ hộ cho em điều bí mật này nghe.

Vâng! Chính vì tôi đã giữ cho cô cái điều bí mật đó, nên hai cái tên Hà Nhất Anh, Hà Nhị Anh mà các bạn vừa đọc được trong truyện, đều không phải là tên thật của hai chị em nàng.