MẢNH
ĐỜI CÒN LẠI
.thụyvi
(Michigan)
“Lộ diệc vũ trùng
trung chi nhất…”
Con
người ta khi đã có một quảng đời dằng dặc khổ đau, mất mát, thương tổn, đáng lẽ
không nên ngoái đầu nhìn lại làm gì. Nhưng rồi mỗi năm cứ đến ngày oan trái,
những vết thương cũ tưởng lành lại tứa máu…
Nhớ
lại, tôi không can đảm đối mặt với nó, nhưng cảm giác về những năm tháng ấy nói
không bao giờ hết.
Bị Đuổi Ra Khỏi
Ngôi Nhà Của Mình:
Sau
khi ủy ban quân quản tịch thu ngôi nhà do chính đồng tiền lương thiện chắt chiu
của cả hai vợ chồng, tôi không biết mình đứng chết lặng như cái xác không hồn
trong bao lâu, trước khi dắt diú đứa con trai bốn tuổi với một bào thai vừa lớn
trong bụng cùng chút tư trang còm cõi để bắt đầu bước vào đời sống vô vọng mịt
mù trong mảnh đời còn lại.
Tôi
chới với khi bổng dưng bị ném ra ngoài một cách tàn nhẫn trong một xã hội lạ
lẫm, ngột ngạt, hận thù. Tôi không biết cầu cứu ai? Chồng tôi bị bắt, cha tôi
bị bắt, bà con họ hàng ai ấy hoảng loạn, kẻ còn người mất, người bị bắt, người
thoát chạy ra khỏi nước….! Tôi đau đớn vì cảm thấy mình thật trơ trọi. Trong
cảnh cùng đường tuyệt vọng này, tôi không còn cách lựa chọn nào khác nên đành
phải đưa con về nhà mẹ ruột và ông dượng ghẻ của tôi đang sống tại Cần Thơ.
Những
ngày tháng này mới thật kinh khủng, suốt ngày ông dượng ghẻ kiếm chuyện khủng
bố tôi bằng cách cứ chửi chó mắng mèo hay tra tấn tinh thần tôi bằng cách đem
con tôi ra rầy rà đay nghiến, có khi còn đánh thật tàn nhẫn mặc dù cháu không
có lỗi gì quá đáng. Mẹ tôi thương tôi nhưng mẹ tôi bất lực, cho nên chỉ nhìn tôi
đau khổ như an ủi, hoặc hai mẹ con chỉ ôm nhau khóc thầm. Người hàng xóm biết ý
đồ ông dượng ghẻ, kêu tôi mách nước… Thế là tôi móc hết tiền bạc, tư trang, món
lớn món nhỏ, kể cả bông tay nhẫn cưới… nạp hết cho ông. Mong ông tội nghiệp
thương tình cho tôi tá túc có nơi ở sinh con và đợi chồng.
Sinh
con xong. Chỉ tuần lễ sau là tôi đã trở ra ngồi bán thùng thuốc lá ngay đầu đường
để kiếm sống. Tưởng đã yên thân, ai ngờ, đứa con mới sinh chưa đầy ba tháng, ông
dượng ghẻ bắt đầu dùng chiến thuật để vòi tiền khủng khiếp hơn, vì lúc nào trong
đầu ông cũng đinh ninh là chúng tôi lắm của nhiều tiền nhưng khéo dấu. Bởi với
những chức vụ mà ngày xưa chồng tôi đảm nhiệm, nếu không là một sĩ quan thanh
liêm, chồng tôi có 1001 cơ hội để làm giàu. Lần này, tôi thật sự không biết
phải làm sao, vì hôm trước, hai chị chồng cùng vài bà con có cho chút đỉnh,
nhưng tôi đã trang trải tiền bịnh viện, tiền sữa, tiền ăn uống thuốc men nằm cữ
hết rồi. Thế là ông dượng ghẻ và mẹ tôi bắt đầu cải cọ cào cấu nhau suốt ngày. Khiến con tôi cứ mếu máo sợ hãi trốn núp trong
góc nhà, kẹt cửa. Chịu không nỗi, tôi thu xếp những món cần dùng và ba mẹ con
chúng tôi bồng chống ra đi!
Tôi
bơ vơ, ôm con đi trên phố như người thất thần, đứa con lớn lẻo đẻo sau lưng. Ba
mẹ con thất thểu đi tới đi lui. Giờ phải đi đâu đây? Sống ở đâu đây? Khi tất cả
đã mất hết. Nhà cửa không còn, tiền bạc
không còn. Còn đường nào nữa đâu, ngoài con đường chết !? Ý tưởng chết vừa manh nha trong đầu và tiếp
tục thôi thúc xúi tôi quày quả ra bến phà Cần Thơ.
Cần
Thơ lên Sài Gòn phải qua con sông rất rộng, nước chảy xiết dưới những chiếc phà
lớn đưa người và xe cộ qua lại. Nhảy ùm xuống đó là an toàn nhất, dễ dàng nhất
và chết nhẹ nhàng nhất. Chiếc phà từ từ trôi ra giữa sông. Tay ôm đứa con sơ sinh,
tay nắm cứng đứa con lớn, tôi mon men ra phía trước, chổ đường xe lên xuống,
không có những hàng lan can chắn giữ. Tôi đứng im hồi lâu nhìn xuống dòng nước
bên dưới. Tôi dự định thật nhanh trong đầu là sẽ ôm hai con tôi thật chặc trong
ngực rồi lao xuống… Gió lồng lộng. Đứa lớn có vẻ lạnh, sợ, khóc tấm tức, tôi
cúi xuống bế con lên nghẹn ngào: “Mẹ con mình cùng chết nghe con?” Đứa bé bốn
tuổi hiểu gì đâu, nhưng bỗng nhiên con tôi khóc lớn lên lắc đầu quầy quậy “Không!
Không!”. Tiếng la khóc xé lòng của đứa con khiến tôi giật mình, sửng người và
tỉnh lại. Tôi vội vàng ôm con dỗ dành, miệng như lập bập trong nước mắt “Mẹ xin
lỗi! Xin lỗi, con ơi! ”
Thoát
qua được cái chết trong giây phút ngu muội, tôi cảm thấy mình phải mạnh dạn
hơn, can đảm hơn, và sẵn sàng đương đầu với cuộc đời để bảo vệ hai đứa con của
mình.
Cuối
cùng, một người bạn thân tên Duyên cám cảnh, sẵn sàng đùm bọc mẹ con tôi. Cảm
động nghĩa cử này, và không muốn bạn tôi bị phiền phức và có thể bị liên lụy
với công an, khu phố vì dám chứa chấp “vợ ngụy” trong nhà. Tôi thuyết phục bạn
tôi cho mẹ con tôi dọn ra cái chòi dùng để chứa củi ở phía sau hè.
Đêm
đầu tiên ngủ trên vạt giường đóng từ mấy thân cây tràm, tôi phải lôi hết mền
gối quần áo để lót cho con tôi nằm cho đỡ cấn. Nửa đêm trời bỗng đổ mưa, khi
gió thổi, mái lá tốc lên, mưa xối qua khe lá tạt xuống, mùng chiếu ướt đẫm,
ngọn đèn dầu tù mù một hồi rồi tắt ngấm, tôi lết tìm chổ nào đỡ dột nhất, vừa
ôm ấp che chắn vừa quạt muỗi cho hai đứa con bé bỏng bất hạnh của mình. Trong
hoàn cảnh này, tôi không còn nước mắt đâu để khóc. Cũng không còn cảm xúc để
kêu trời hay gọi đất. Chỉ mong trời mau tạnh mưa, trời mau sáng. Nhưng, như chị
Dậu- Tôi cô đơn tê tái nhìn ra bên ngoài trời đen thăm thẳm tối mịt tối mù…
Kiếm Sống
Một
tấm ni-lon trải dưới đất ở góc chợ với mớ quần áo cũ để bán, là nghề mới của
tôi. Sáng hừng đông, tay bồng tay dắt, ba mẹ con đã có mặt ngoài chợ. Trong khi
tôi bận mua bán, hay chạy tới chạy lui lấy hàng thì đứa con trai lớn biết phụ
mẹ, trông hàng hay đùa giỡn với đứa em gái nằm quơ tay quơ chân o e cũng vừa
tập lật. Khi nào buồn ngủ lắm hay mệt thì cứ nghẻo đầu dựa trên đùi tôi thiu
thiu ngủ. Nhiều hôm trời đứng bóng, nắng quá thì tôi kiếm chổ mát, hay kiếm
những xe ba bánh trống rồi trải cái khăn, lấy nón lá úp lên mặt là con tôi ngủ
ngon lành. Mẹ con tôi sống như vậy vừa nuôi chồng vừa nuôi nhau được nửa năm,
thì một hôm chị La Phú Xương, vợ bạn của chồng tôi tình cờ đi ngang, gặp tôi
chị mừng, đang cười hỉ hả, đến khi thấy hai con tôi lam lủ bụi đời, thì chị xúc
động, xốc hai đứa con tôi lên nói như nghẹn ngào :“Thiếm để tôi giữ mấy đứa nhỏ
này trong nhà, chứ phơi nắng tụi nó riết có ngày sinh bệnh mà chết”. Thấy chị
lẹ làng tốt bụng, tôi không biết nói gì, thầm cảm ơn Trời và khóc.
Một
lần nữa, mẹ con tôi bồng chống ra đi trong bịn rịn luyến lưu, từ giã gia đình
chị Duyên, chia tay mái chòi dột nát đầy ân tình đến tạm trú nhà chị Xương.
Hoàn
cảnh chị Xương có hơn gì tôi đâu? Nếu có
hơn là chị còn được cái nhà. Anh Xương
đi tù, bốn mẹ con chị bửa đói bửa no. Đến khi đã nạy hết những viên gạch men
cuối cùng trong ngôi nhà lam nham lở dở, không còn gì để bán. Chị Xương bắt đầu
tập tành đi buôn lậu gạo, thịt từ Cần Thơ lên Sài Gòn. Chuyến nào lọt thì có tiền mua gạo ăn, chuyến
nào bị bắt thì hết vốn, Sơn, đứa con trai út thấy chị cực quá, ban đêm ra bến
xe, đạp xe đạp ôm phụ mẹ.
Trong
mỗi mảnh đời của những người đàn bà có chồng bị tù cải tạo, không có mảnh đời
nào sướng hơn mảnh đời nào. Mảnh đời nào cũng chỉ toàn là nước mắt và những năm
tháng nhọc nhằn. Khi người đàn bà dang thân ra đứng bán chợ trời thì gặp trăm
ngàn cay đắng và người đàn bà đi buôn lậu từng bịch gạo, ký thịt cũng trăm phần
cay đắng như nhau. Ngày nào cũng bị “bạn
hàng” chèn ép, nước mắt chảy không thôi, nhưng khi gặp chồng mặt mày tươi tỉnh
“chú đừng lo, ở nhà mấy mẹ con em sống đầy đủ”.
Cũng
trong giai đoạn này, những tên lơ xe, tài xế, đứng bến, có dịp o ép những người
vợ cùng khổ mới thấy ghê… Giậu đổ thì bìm leo, ai không biết, nhưng trong lúc
này, chiến tranh cơm gạo, dành nhau từng ký bo bo, từng ký mì sợi, từng lít
nước muối pha màu, khiến người đàn bà khác hẳn, sù lông giương móng để giữ chặt
phần ăn cho con mình. Thời thế còn tàn nhẫn biến một người phụ nữ quý phái, mềm
mõng trở nên đanh đá, quyết liệt. Nếu không, không sống được, có khi còn phải
tan nát gia đình với bọn tiểu nhân đắc ý.
Ngoài
lòng tin có Thượng Đế, tôi còn tin tình người đã giúp cho tôi gặp lại vợ chồng
chú Sáng - người tài xế cũ của chồng tôi, để từ đó chấm dứt cuộc sống lang
thang như mèo mẹ bơ vơ tha con mình đi cùng khắp.
Năm
đó, chú Sáng đang làm tài xế, nhưng bất cẩn để gây ra tai nạn cán chết con trai
hai tuổi của ông Nguyễn Thanh Tòng, trưởng ty Cảnh Sát tỉnh Chương Thiện. Buổi
sáng đó, như thường lệ, chú đem chiếc Scout đậu trước nhà chờ chồng tôi, thường
chú hay nổ máy xe sẵn cho ấm và có lẽ đang loay hoay làm gì đó nên không thấy
đứa bé lon ton theo người cậu băng qua đường mua đồ ăn sáng. Bất ngờ, thằng bé
không đi tiếp, quay đầu lại rồi chun tọt vô lườn xe ngồi chơi. Chồng tôi từ nhà
đi ra, mở cửa xe bước lên. Xe vọt tới, hàng xóm la hoảng, nhưng đã trễ!
Dĩ nhiên chú Sáng phải ra toà. Chúng tôi hết
lời trình bày năn nỉ, vợ chồng ông Tòng thông cảm nên bãi nại. Tuy chồng tôi
trấn an, và giúp chú, với những gì anh có thể giúp, nhưng chú Sáng có vẽ không
yên tâm và nôn nóng bỏ trốn. Trước khi đi, chú có lén đến từ giả tôi và dĩ
nhiên tôi dấu chồng, còn dắm dúi chút đỉnh cho chú về quê làm vốn.
Sau
năm 75 chú nghe người ta kể những biến cố trong gia đình tôi. Vợ chồng chú thật
đau xót và quyết tâm tìm cho ra tung tích vợ con người chỉ huy cũ. Chúng tôi nhìn nhau kể lể khóc cạn khô nước
mắt. Rồi cười. Mừng mừng tủi tủi. Như trong gia đình, vợ chồng chú trình bày
thiệt hơn, nói tôi đừng ngại, hãy về quê của vợ chồng chú mà sống.
Cảnh
dang thân dầm mình giữa chợ đã khiến tôi thấm mệt, Con tôi đã đến tuổi đi học,
một chổ yên thân có cái hộ khẩu, con tôi mới được vào trường. Lời đề nghị của vợ chồng chú ngay lúc cần
thiết nhất, như cái phao trong tầm tay, tôi hết sức mừng rỡ.
Nghe
tôi nhận lời, vợ chồng chú hối hả về quê dựng cho mẹ con tôi mái nhà, sắp đặt
đâu đó xong xuôi rồi tức tốc trở xuống Cần Thơ đón mẹ con tôi, như sợ tôi đổi
ý. Ngày chia tay, thương nhất là hai đứa con gái chị Xương, thời gian ở chung
mến hơi quen tiếng, giờ ra đi mấy đứa nhỏ ôm nhau khóc mùi mẩn, bịn rịn không
rời.
Chúng
tôi về Vàm Cống, ở trong ngôi nhà tranh kín đáo, cất giữa đồng, nhà chúng tôi
có giường cây, bàn cây, ghế cây, tuy chỉ
những loại gỗ tạp rẻ tiền nhưng tôi cảm thấy mình thật giàu có và bắt đầu học
bài học biết ơn mọi thứ.
Tôi
là người sống động, nên cho dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù phải nếm qua
bao khốn khó tủi nhục gì, dù đang ở một nơi thiếu tiện nghi nhất- như vùng quê này, không điện, không nước máy,
không TV, nhưng tôi lúc nào cũng tìm một cái gì vui để quên khốn khó, vẫn thêu
dệt nhiều mộng đẹp, thí dụ mái chòi tranh tôi đang ở thi vị hoá là “lều thơ” và biến nó thành một
nơi ở thơ mộng, là một nơi an toàn cho các con tôi có chổ chạy nhảy nô đùa.
Thời gian này, còn có thêm cháu Thủy, con gái vợ chồng chú Sáng ra ở chung quây
quần đùm bọc lấy nhau. Sáng sáng tôi lên
chợ Long Xuyên bán buôn thì mấy chị em ở nhà, chiều chiều tôi xách gạo, thức ăn
về nấu, cả nhà xúm lại ăn với nhau thật vui, tối tối tôi lấy mấy cuốn truyện cũ
đọc cho các con tôi nghe, thằng con trai lớn của tôi mê lắm, như cuốn Thủy Hử
nó thuộc lòng. Các con tôi không cha là một thiệt thòi rất lớn, nên tôi phải
làm tất cả, hết sức mình để bù đắp cho con. Hôm nào có gánh hát, tôi và Thủy đạp hai xe
chở hai đứa nhỏ đi coi hát. Tối khuya đạp về giữa cánh đồng lồng lộng gió, tôi
thấy lòng mình bình yên và hy vọng đời tôi hết long đong từ đây.
Trong
một bài viết nào đó của bà Quỳnh Dao, có một đoạn tôi nhớ bà viết y hệt tâm trạng
và hoàn cảnh của tôi lúc này...
“…
Cuộc sống đã yên ổn, những ngày tháng sống lang thang đã đi qua. Khi đã yên ổn
rồi, tôi mới thấm thiá được cái được, cái mất mà cả đời người phải vật lộn với
nó, cuộc đấu tranh để sinh tồn mới thật vô tình, cay đắng và lạnh lùng làm sao!
…[ngưng trích]…”
Riêng
tôi, trong lúc này, nó còn thêm nỗi quạnh hiu, lẻ loi khi nằm nghe tiếng ếch
nhái rền rã như than như thở, thảm thiết chung quanh, cái âm điệu đó ám ảnh tôi
cho tận hôm nay, khi tôi đã yên ổn sống trên nước Mỹ, nhiều đêm ngủ giật mình
hoảng hốt choàng dậy, lắng nghe… may quá, chỉ là tiếng gió!
Mảnh
vườn “Thượng Uyển” nho nhỏ của tôi trồng bưởi Năm Roi, ổi xá lị, đu đủ, mận
Hồng Đào, mỗi thứ một cây đang lớn sơn sởn, sum suê thì trận lụt kinh hồn năm
1978 nhận chìm nghĩm hết. Mấy mẹ con tôi nhờ lối xóm đóng cho cái sàn sát mái
nhà để ở. Diện tích cái sàn chật chội, nên bếp núc thật đơn giản - nấu nồi cơm,
kho nồi cá ăn mấy ngày. Chú Sáng cẩn
thận lắm, đem cái kẻng treo nơi đầu
giường để đêm hôm có gì không ổn thì khua kẻng la toáng lên cho hàng xóm biết. Thỉnh
thoảng thiếm sáng tiếp tế đồ ăn, bánh trái, có lần thiếm nấu canh chua bắp
chuối với xương cá khô, lần đầu tiên ăn, tôi thấy vị lạ, bửa đó tôi ăn thật
chậm, húp một miếng canh vô miệng ngậm thật lâu cho thấm rồi mới nuốt. Tuyệt
ngon, nhớ suốt đời!
Sống
cheo leo giữa bốn bề là nước suốt hơn tháng trường, nhưng các con tôi sởn sơ,
cũng lạ?
THĂM NUÔI
Đời
sống trôi qua một cách vật vã. Những ngày tháng tất tả chạy ngược chạy xuôi,
thăm nuôi cha, thăm nuôi chồng, nuôi con và nuôi mình, khiến tôi tàn tạ không
ngờ, nét bơ phờ cằn cỗi xuất hiện thật nhanh trên mặt tôi. Người vợ “thục nữ
yểu điệu” hay “đoá Hồng tinh khôi” mà chồng tôi hay gọi giờ tiều tụy như con ma
đói.
Nhà
tôi cách phà Vàm Cống đúng hai cây số, mỗi chuyến thăm nuôi chồng, phải đi trở
ngược hướng Cần Thơ, tôi phải dậy lúc nửa đêm, hai mẹ con khiêng vác những bao
bị giỏ xách khệ nệ đi bộ ra tới bến phà, đập cửa nhà ông thuyền câu, nhờ ông
chở qua sông để kịp đón xe tài nhất từ Long Xuyên chạy xuống lúc ba giờ sáng.
Chiếc
thuyền câu chúng tôi ngồi qua con sông lớn là một chiếc thuyền thon gọn, chèo
tay. Nếu nhìn trong tranh, chụp trong hình thì thật là thơ mộng, nhưng thực tế
mẹ con tôi ngồi hồi hộp bấu vào mạn thuyền cho chặt khi thuyền băng ngang dòng nước chảy xiết trên
khoảng sông rộng mênh mông trong đêm tối chập chùng. Nhiều lần cứ tưởng những con
sóng chồm lên, nhận chiếc thuyền xuống nước.
Trong
chuyện Khóc Lặng Thinh, tôi có kể gần tám năm trời tôi và đứa con trai đầu lòng vừa bốn tuổi có
rất nhiều kỷ niệm tủi cực trong những chuyến thăm nuôi… Trong những lần đó, mẹ
con chúng tôi nhiều đêm phải ngủ ngoài lề đường, hoặc là ngồi bó gối suốt đêm
ngoài bến xe, ngủ lăn lóc ngoài bến tàu, ngủ bờ, ngủ bụi… thậm chí tôi cũng
thường xuyên tòn ten đeo cửa xe đò trên quảng đường đầy ổ gà dài vài chục cây
số. Có một lần xe đò bể bánh, lật nhào, lăn nhiều vòng, tôi ôm chặt lấy con tôi
mà tưởng hai mẹ con cùng chết. Khi chiếc xe nặng nề nằm im thôi không lăn nữa
và biết mình còn sống, hai mẹ con lóp ngóp run rẩy chen chúc bò ra, tôi vội
vàng rờ rẫm khắp cùng mình mẩy con để chắc coi con mình có bị gì không, miệng
năn nỉ hỏi coi con đau chổ nào. Biết con không sao, tôi yên tâm rồi thảng thốt
đi như người mộng du bươi tìm trong đống ngổn ngang lôi ra bao thức ăn thăm
nuôi bẹp rúm rồi kéo lê kéo lết lên bờ đường. Tai nạn tuy không có người chết nhưng
chung quanh tôi mọi người kêu réo lao xao. Lúc này tôi mới cảm thấy thân thể
tôi rã rời, vừa ôm dỗ đứa con bé bỏng xanh xao nằm thiêm thiếp mệt nhọc trên
ngực mà tôi tê tái, buồn đến quặn thắt đau xót ruột gan. Tôi lặng lẽ ôm con mà
khóc.
Trại
tù Kinh Năm tại xả Hoả Lựu tỉnh Chương Thiện là một tập đoàn ăn hối lộ trắng
trợn. Tù muốn đi phép về thăm vợ? Muốn đi công tác ngoài tỉnh? Muốn vượt biên?
Có giá cả hẳn hòi đơn vị tính bằng vàng lá 9999
(Anh Nguyễn Hoài Ân tùng sự tại Long Xuyên, là bạn tù cùng trại với
chồng tôi, một lần anh đi công tác tại trại tạm giam Cần Thơ, gặp tôi bị giam ở
đó với tội “cả gan” mắng “HCM là
thằng du đảng!”. Sau đó anh vượt biên, tụi cán bộ làm lễ đặc xá (?) thả tù, đọc
tên anh Ân hẳn hòi… nhưng anh Ân đang ở…ngoại quốc).
Các
bà vợ tù muốn ngủ đêm lại với chồng? Chuyện nhỏ, nhà cán bộ cất ngay góc bờ
kinh 5 đó chi! Cứ nạp cống bằng một giỏ đồ ăn ngon là có dịp tâm sự suốt đêm
với chồng.
Năm
đó, chồng tôi bịnh nặng lắm, nhiều lần tưởng chết, mỗi lần ho, máu ộc ra từng
ngụm, nhưng ngày nào cũng phải đi đào đất, móc gốc (rễ ) cây tràm theo đúng quy
định của họ.
Lần
đó thăm nuôi, tên Công An lân la gợi ý bắt mối cho biết muốn chồng tôi được lao
động nhẹ thì nên đến gặp vợ trưởng trại, nhà ở Phụng Hiệp. Tôi biết mình không
thoát. Thế là tôi chạy sất bất sang bang, nhà nào tôi cũng gỏ cửa, cuối cùng
gom được hai lượng vàng. Duyên bạn tôi e
ngại vợ trưởng trại chê ít, nên chu đáo cho thêm 200 con cá giống Chép, giống
Trắm Cỏ, rồi kêu xe cho tôi chở vô nhà vợ của Hai Râu nạp cống.
Khi
xe đò bỏ tôi và hai bọc cá lớn đầy nước bơm đầy oxy ở mé lộ thì tôi thật tình
lúng túng, may thay có mấy người chăn trâu, è ạch phụ khiêng với tôi đến nhà
mụ. Trên đầu nắng đổ ụp như chảo lửa, nhưng tôi không có cảm giác gì hết, chân
bước nôn nao lấp xấp sợ nắng quá, cá không chịu nỗi chết thì sao.
Đang
tràn trề hy vọng, quẹo vô ngõ, đụng mặt chủ nhà, mặt mụ cán bộ sưng lên khinh
khỉnh hất hàm hỏi
“Bưng
gì dzậy?”. Tôi khựng lại, cảm thấy nhục, nóng mặt, nhưng cố dằn cái nhục xuống,
mềm mõng: “Tôi có ít cá giống tốt tặng, chị thơm thảo nhận dùm.” Bà riết róng kiểu nhà quê tiểu nhân đắc ý,
môi trề ra, tay như xỉa xói vô bên trong:
“Trời! mấy con vợ tá vợ úy tụi ngụy tặng tui xe Honda, tủ lạnh lủ khủ
tui còn hông thèm, chị cho chi mấy con cá?”. Tôi tức uất lên, nếu không thể
chửi mụ vài câu thì cũng bỏ bịch cá đang lội lờ đờ dưới chân đi thẳng… Nhưng
nhớ đến thân hình gầy guộc của chồng, nhớ đến cơn bịnh không biết cướp mạng
chồng mình lúc nào. Tôi dằn xuống, tay như run nhẹ trong túi áo khi móc gói
vàng ra đưa mụ, tôi nói: “Lần đầu tặng chị làm quen, mai mốt chị muốn gì tôi
đem vô… thêm”. Con vợ thằng trưởng trại
lấy gói vàng lật ra chăm chú xem rồi nhét vô túi, miệng cười hệch ra thấy ghét.
Nhưng lúc đó mụ cũng vừa liếc thấy chiếc vòng cẩm thạch của tôi đeo dấu trong tay áo bà ba, mụ liền nắm tay tôi
kéo vô nhà vừa cười mơn vừa vén tay áo của tôi để săm soi chiếc vòng, miệng nói
ngọt sớt: “Chèn ơi! Chị em không mà, chiếc dòng xanh dử hén, chắc màu lý, à
chồng chị tên gì, cấp bậc gì, trại mấy, nói tui giúp liền”. Câu giúp liền của
mụ là tôi biết tỏng mụ rồi, nhưng tôi biết làm gì hơn đành phải bấm bụng kêu mụ
lấy nước với cục sà bông, mụ mừng lắm, hối mấy đứa con lè lẹ. Nước sà bông đem tới,
mụ sà bên tôi vừa bóp vừa thoa vừa cật lực kéo chiếc vòng cho tuột ra. Tôi đau
điếng, chịu đựng, ngồi kể lể tình cảnh của chồng mình. Lột được chiếc vòng, tôi
thấy hai con mắt mụ sáng rực, không biết mụ có nhớ tôi nhờ gì không? Sợ mụ quên,
tôi nhắc tên và cấp bậc, phòng, trại của chồng tôi lần nữa rồi lủi thủi ra về với
bàn tay sưng đỏ.
Sau
đó chồng tôi được điều vào tổ khác: đôi ngày ngồi cưa củi, lột vỏ tràm, vài
ngày dầm mình dưới sông để vớt rong, lục bình về cho tổ rẩy. Công việc này tuy
chưa phải là lao động nhẹ, nhưng dù sao cũng đở hơn đi đào đất.
Sau
những đợt kiểm kê, nhà nước tịch thu hết thuốc men vải vóc… Bây giờ một viên
ABC sổ mủi nhức đầu còn không có mà uống, huống chi các loại trụ sinh! Thăm
chồng về, còn sớm, mẹ con tôi đến thăm chị Xương và mấy cháu, tình cờ có người
bạn của chị làm trong bịnh viện ghé chơi, biết tôi cần thuốc trị bịnh cho
chồng, chị môi giới cho tôi mua số lượng kha khá, mừng quá, tôi suy tính một
hồi rồi hẹn đi lấy tiền lát sau trở lại.
Thật
ra, tôi có tiền đâu mà lấy? Tôi không muốn phiền bạn nên dắt thằng con ra kêu
xe hai mẹ con đi tới bịnh viện. Thủ tục bán máu rất dễ dàng, tôi năn nỉ họ rút
dùm thêm bịch nữa để tôi có đủ tiền mua lô thuốc cho chồng. Có lẽ thấy tôi tội
nghiệp cho nên rút máu xong, họ tặng thêm cho cái bánh ú. Ra đến cổng tôi thấy
mệt muốn chóng mặt, nên ngồi xuống lề đường, hai mẹ con lột cái bánh ra ăn, kêu
thêm ly trà đá. Vừa uống hết ly trà, con tôi khều tay chỉ: “Họ múc nước này
trong cầu tiêu kìa mẹ”. Tôi quay lại thấy mấy người xách xâu đựng ly trên tay,
vừa múc nước trong hồ dội cầu để pha trà. Nhưng không hiểu sao, tôi cảm thấy ăn cái bánh
này, uống ly nước này thật ngon nhất trong đời, y như ông hoàng tử được ăn “Cháo
bắp, mắm hến” của ông nhà văn nào đó viết.
ĐOÀN TỤ
Sau
bảy năm bốn tháng, chồng tôi được tha, vợ chồng gặp nhau, mừng không thể tả,
chòm xóm láng giềng dù nghèo, nhưng người này đem gà, nhà kia đem vịt đến ăn
mừng thật vui vẻ rộn ràng suốt mấy ngày. Sau đó, vợ chồng dắt díu nhau về
nguyên quán (quê chồng) theo lịnh công an ký trong giấy ra trại.
Ai
cũng nói cuộc đời của tôi khổ đã tận, bắt đầu cam lai. Tôi tin vậy. Tôi đã
nghèo quá sức, cực quá sức, còn sợ gì? Huống chi bây giờ tôi đã có chồng tôi kề
cận!
Mặc
dù trong giấy ra trại ghi là: Về nguyên quán. Nhưng chồng tôi còn e ngại tụi VC
địa phương trong quê nhà nhớ thù xưa vì hồi đó ba chồng tôi không chịu nghe lời
tụi nó bắt buộc chồng tôi phải bỏ học ở Sài Gòn đem về quê làm du kích! Quá chán ngán tụi nó, nhưng sợ bị trả thù và
mong muốn muốn chồng tôi yên tâm tiếp tục sự học. Ba chồng tôi phải quyên sinh bằng thuốc ngủ. (Thời chiến tranh, Bến Tranh là vùng sôi đậu).
Biết
chắc chắn về quê nhà sống không yên thân với đám Ủy ban xả, nên tôi tốc xuống
Cần Thơ, lót tay hối lộ 5 chỉ vàng để ty công an tỉnh Hậu Giang đóng cái mộc
khác, kế bên cho phép về thành phố!
Mới
chân ướt chân ráo, tiền đâu chúng tôi mua nhà? Người em họ có ngôi nhà trống trước trống sau,
tuềnh toàng không mái bỏ hoang, kêu cho. Mừng quá, bà con xúm lại đổ đất đắp
nền, lợp lá, tuy nhà bếp quá hẹp, ẩm ướt chỉ đứng được một người, nhà vệ sinh
càng đơn giản hơn, không có cửa… Với bốn bàn tay và cái khiếu trời cho, không
bao lâu vợ chồng tôi biến ngôi nhà trở nên sạch, gọn, mát mắt lạ thường.
Mấy
tuần lể, vợ chồng con cái âu yếm mặn nồng, nhàn nhả thật vui, nhưng cơm áo gạo
tiền bắt chúng tôi đối đầu với thực tế. Với bản tánh nhạy bén, tôi thấy chổ ở
của mình có lợi thế về mua bán hàng quán thức ăn, vì nhà ngay chợ, gần trường
học, lũ học trò qua lại mỗi buổi sáng.
Nghe tôi đề nghị nấu nồi cháo huyết là ít vốn nhất, dễ nấu nhất, chồng
tôi thấy hợp lý, chạy ngay về quê mượn nồi, tô, bàn ghế nhỏ cùng nhiều thứ thứ
lỉnh kỉnh để đủ khai trương “Nồi cháo huyết vĩa hè” ngay đầu hẻm.
Mấy
ngày đầu cháo bán mau hết. Mấy ngày sau bán ế hơn, hao củi quá, không lời. Mấy
ngày kế tiếp ăn cháo thay cơm, lúc đầu chồng húp vợ khen ngon, ăn thêm vài ngày
nữa, hai đứa con nuốt không nỗi. Chồng
tôi có vẻ xót xa cứ thở dài.
Sáng
hôm sau, phụ xong mấy việc lặt vặt, anh nói về vườn xin ít củi, rồi đạp xe đi. Trời
sẩm tối thì anh về mặt đỏ lựng vì nắng nhưng cười hí hửng, ngoài bó củi ra anh
còn có ít bánh trái cho con. Rồi ngày nào anh cũng đi, khoảng đâu tuần lể, anh
không còn đem bánh trái về, mà bưng nguyên… một thùng kem vô đãi mấy mẹ con ăn
vì… bán ế! Tội nghiệp chồng tôi lén vợ đi bán kem, lắt chuông leng keng đạp
khắp cùng làng cuối xóm.
Rồi
tiếp theo, ngày nào cũng ăn cháo ế, kem ế. Chịu hết nỗi. Hai vợ chồng tôi bàn
nhau giải nghệ! Vài ngày sau, tôi chuyển sang nghề bán sương sáo.
Ngày
nhỏ, tôi tuy không lá ngọc cành vàng, nhưng vì không mẹ, nên tôi được cả họ
hàng bên ngoại bù đắp tình thương nâng niu tôi như quả trứng, gửi tôi vào học
những trường đạo mắc nhất Sài Gòn và dĩ nhiên tôi chưa biết thế nào là cực khổ
! Lập gia đình, tuy không giàu có, nhưng với bằng đại học, tôi có một nghề khả
dĩ giúp tôi thảnh thơi đủ mặt.
Cuộc
đổi đời cũng là một cuộc đổi thay lớn thật khốc liệt của một đời người, mà
chúng tôi không thể nào lường trước. Tuy sống trong chế độ CS, nhưng trong lòng
tôi không bao giờ thỏa hiệp, vì vậy tôi cũng có suy nghĩ đến việc ra đi. Tuy có
nhiều cơ hội đem con trốn ra khỏi nước. Tuy có lần đã đi rồi, sẳn sàng rồi,
đang nằm ém chờ tại một cù lao rồi… Nhưng
tôi áy náy không yên…
Cuối
cùng tôi tâm niệm, vợ chồng vinh nhục cùng hưởng cùng chia, tôi nhất quyết,
không bao giờ bỏ lại chồng tôi một mình.
(Chuyến
đó các con chị Xương tới đảo bình an).
Chuyển
qua nghề bán sương sáo, đở phải nấu nướng, ít vốn, lời nhiều. Những khi chồng
tôi có nhà, không phải đi thủy lợi đào kinh.
Anh dậy sớm chở mấy khuôn (ổ) sương sáo người ta nấu sẳn về cho tôi ngồi
xắt bán ngoài chợ. Khi anh vắng nhà, dù mưa gió cũng phải chổi dậy, đạp xe mê
man trong hơi gió khoảng 5 cây số vào tận lò mua một bội (cần xé nhỏ) gồm 3 ổ
sương sáo nặng khoảng 20 ký rồi chở về.
Đêm
nào trời mưa đường trơn trợt, xe không đạp được, tôi vừa đẩy xe vừa kèm cho xe
không ngã, có khi kềm không nỗi vì nặng quá, xe ngã nhào, mấy ổ sương sáo đổ
lăn ra nát bét.
Tôi
là vợ, là mẹ thường phải giật gấu vá vai, khi các con càng lớn, nhu cầu càng
cao, nên thiếu trước hụt sau, nhiều lúc anh đâu hiểu… Cứ như vậy, tôi vật lộn
với gian khổ từng ngày với tất cả sự nhẩn nại và an ủi - cực nhọc mà vợ yêu
chồng, chồng yêu vợ, âu yếm nhau, an ủi nhau, tôn trọng nhau thì sá gì cực khổ.
Nhưng thực tế “Vợ chồng nghèo trăm sự
khó” cái khó thêm cái nhục bị phân biệt đối xử trong xã hội Cộng Sản thì đời
sống mới thật hãi hung- Chúng tôi bị liệt vào thành phần có lý lịch xấu, sống
cô thế, bị chính quyền theo dõi mỗi ngày và dĩ nhiên không hề được luật pháp
bảo vệ… Vì phải sống trong thắc thỏm lo sợ bắt bớ… chồng tôi càng xuống tinh
thần cộng thêm những tin tức bạn bè trốn ra khỏi nước, càng khiến chồng tôi bắt
đầu nao núng, nóng nảy và cảm thấy bực bội chán nản trong đời sống tối tăm vô vọng!…
Anh
bắt đầu câu mâu với tôi những chuyện không đâu (vì nếu không đổ trên đầu tôi
thì anh đổ đâu)? Có khi sợi tóc anh chẻ làm ba làm bốn và lạ, vợ chồng cải cọ
thì anh toàn nói những câu tệ bạc! Tôi không giận anh, nhưng thất vọng! Những
lời chê tôi tràn họng, tuy có xé nát tim
tôi, có khiến tôi đau đớn như con thú mang đầy thương tích, nhưng vì thương
anh, thông cảm cảnh anh sa cơ ngã ngựa, cảnh anh bị dồn tới đường cùng, mà tôi
hết sức nhịn. Yêu chồng, nhịn, tha thứ có gì là quá đáng ? Tôi bắt đầu nghĩ đến
ly dị và tự tử. Ý tưởng tự tử lớn hơn,
mạnh hơn lúc nào cũng thôi thúc trong đầu.
Hôm
đó, chuyện rất nhỏ, có lẽ anh mệt hay bất ý gì đó ngoài đường. Khi chở đôi nước
về tới nhà-(nhà không có nước máy, và thường xuyên bị cúp)- anh dằn thùng nước
trước mặt tôi, gằn giọng phũ phàng: “Nước chở cực, liệu mà xài!”.
Giọt
nước bất mản vừa lúc tràn ly. Tôi ngỡ ngàng nhìn anh tuyệt nhiên không nói câu
nào, rồi đi tìm một góc ngồi Im lìm, lòng tê tái. Suốt tám năm trời, một lòng
chung thủy, lưng cỏng hai con, đèo núi nào tôi cũng trèo qua, suối sông nào tôi
cũng lội không thèm than thở. Anh tù
đày, tôi thương, không bỏ. Anh bán cà
rem, hay sửa xe đạp tôi cũng không chê. Nhưng anh như thế này tôi không chịu nỗi! Tôi cảm thấy trái tim tôi như rơi xuống một
cái vực không đáy, cứ rơi, rơi mãi, tôi cảm thấy chới với… Người chồng tiết
tháo, nhân cách lẫm liệt ngày nào của tôi đâu? Người chồng si tình yêu vợ vời vợi một trời
của tôi đâu? Suy nghĩ hồi lâu, tôi thấy
mình bất lực, cái cảm giác bất lực mới thật là dễ sợ!
Chồng
tôi vốn trung hậu, có lẽ thấy mình quá đáng, lỡ lời, anh theo xin lỗi xí xoa
làm hoà.
Đêm
đó, tôi uống từng viên, từng viên, từng viên... Tôi đếm đúng 20 viên thuốc, rồi
đắp mền đi ngủ… Tôi thoát chết. Nhưng lòng tôi đầy tì vết.
HAI MƯƠI NĂM SAU
Tôi
gần như cả đời không có mẹ. Không hưởng được hạnh phúc có cha có mẹ, chính vì
vậy mà tôi quyết tâm tạo một đời sống có đủ cha đủ mẹ cho con mình đến thành
nhân, thành thân, chi mỹ…
Mảnh
đời còn lại, tôi có thể miệt mài viết, miệt mài vẽ và đợi chết! Nhưng trong
cuốn tạp bút “Cuối Cùng” xuất
bản năm 2009 - nhà văn lừng lẫy Võ Phiến phán: “Chuyện sáng tác có gì đáng
nói?”.
Cuộc
đời chỉ là phù ảo. Tôi đang lộn nhào lẽ đó vào những bài viết của tôi.
(Hầm
Nắng, 35 năm mất nước)
No comments:
Post a Comment