thư viết từ đường heatherglen
phạm
ngũ yên
1.
Mười tám năm tôi xa quê và ba mươi ba
năm Vũng Tàu của tôi đã phai nhạt màu xanh. Muối của biển có còn mặn mà hay
phôi pha vì mỗi mùa giông bão? Ngọn hải đăng mỗi đêm có còn soi rọi những hướng
đi về tương lai cho những chiếc tàu đã không còn tay lái? Nghe nói con đường chạy
quanh Núi Lớn, Núi Nhỏ đã khang trang hơn vì nhu cầu du lịch, nhưng tấm lòng của
người dân đang cạn hẹp và ngổn ngang những gai góc tình người.
Mẹ tôi không còn cách đây nhiều năm. Khi
bà mất tôi không thể về. Có những lầm lỗi mà chúng ta có thể quên được, nhưng
có những lầm lỗi không bao giờ san sẻ hay bị đồng hóa dù chúng ta biện minh bằng
những lý do nào đi nữa. Suốt đời tôi sẽ hối hận vì điều này. Và mọi thành công
sau này nếu tôi vươn tay tới được, sẽ nặng trĩu lòng thống hối. Nó sẽ làm lem
luốt mọi mùi thơm và mọi vinh quang trên những vòng nguyệt quế.
Có biết bao nhiêu người Từ Mẫu đã hụt
hơi đi bên cạnh bước chân thơ dại của con mình? Có biết bao nhiêu người Mẹ còn
giữ cho đời một chút màu xanh hi vọng? Mẹ tôi là một trong những người Mẹ đó.
Bà đã ươm trong hồn tôi, từ ngày thơ ấu những hơi thở tươi mát như gió biển. Bà
không đủ giàu để mua tặng tôi chiếc vé xe mộng ước để chạy đuổi theo những
thành phố hào nhoáng vật chất. Nhưng bà đã đặt tôi trang trọng trên chỗ ngồi của
lòng can đảm - để từ đó đi xuống đời bằng bước đi chân cứng đá mềm.
Trên đất nước tạm dung nơi đây có ngày lễ
Mẹ. Người Mỹ thích cho thế giới thấy sự hiếu thảo của họ, dù chung quanh vùng
Down Town có những căn nhà Nursing Home. Có bao nhiêu chiếc ghế xích đu đong
đưa nỗi cô đơn của những ông bà già, như đong đưa niềm hi vọng? Ở đó cũng còn
có người trợ tá đút cơm cho những người không còn trí nhớ suốt ngày cười nói
như một đứa trẻ, trong khi màn ảnh truyền hình chiếu đi chiếu lại những bộ phim
tình yêu. Những quảng cáo thuốc tăng cường sinh lực. Mọi điều có vẽ như một mặt
khác của đời sống. Nó trùng lấp, hỗn độn và đầy gai góc. Và chúng ta nhìn vào bức
tranh đó, chúng ta sẽ thấy rõ tương lai của chúng ta ra sao.
Những đứa con của Hợp Chũng Quốc Hoa Kỳ
thích vinh danh những người Mẹ. Hãy để cho chúng có việc để làm và có một sự bận
rộn dể thương bên cạnh những căng thẳng nhà xe, cơm áo.
“Có phải nơi kia là phố tôi sinh
Có sương sớm đọng trên đèn muộn
Ðâu? Ðâu có ngụm đèn xanh
Rèm che nhòe cửa sổ
Nín đi thôi. Nín đi thôi các đại lộ nhiều
cây...” (Trần Dần)
Ðêm mênh mang những cánh gió rượt theo
vòng lăn của bánh xe và con đom đóm bay dật dờ trong đám cỏ. Không lâu nửa con
gái tôi sẽ trưởng thành. Nhưng chắc còn lâu nó mới hiểu tường tận về bà nội của
nó nơi một góc phố mà ba nó sinh ra. Trong khi nền văn hóa tại đây không dạy
cho nó cái cảm giác về sự ràng buộc mật thiết của tình mẫu tử. Nên nó sẽ đi vào
đời với một đóa hồng rất hời hợt ngày Mother‘s Day. Một lần tôi chỉ cho nó tấm
hình chụp chung với bà Nội, lúc nó mới vừa bốn tuổi. Khi chúng tôi về thăm lại
Ðà Lạt. Bà Nội nó đội khăn mỏ quạ và trông có vẽ “quê mùa” dưới mắt nó. Nhưng với
tôi, cuộc đời sẽ không lớn lao và văn minh được nếu không có những chiếc khăn mỏ
quạ. Từ những vuông khăn đó, mồ hôi và nước mắt khổ đau đã được lau khô. Hạnh
phúc và niềm vui cũng gói ghém trong đó. Chúng tôi, cùng khôn lớn theo màu thời
gian phai mờ trên từng sợi vải và tương lai phồng căng trên đó như một cánh buồm.
Những chiếc khăn mỏ quạ che kín những
vai đời, trong khi nắng gió làm già háp mộng ước thời niên thiếu. Tôi lớn lên
theo những mùi thơm ngào ngạt toát ra từ nổi buồn, như hóa thân của thời gian .
Chiếc khăn cũng vậy. Nó bạc màu theo tuổi già của Mẹ tôi. Nhưng sao tôi vẫn thấy
nó chứa đựng bao điều mới mẽ.
2.
Gần tới mùa tựu trường. Gió thu hiu hắt
những hồi tưởng. Khi tôi còn là học sinh trọ học bất đắc dĩ trên thành phố Sài
Gòn. Vũng Tàu của tôi là một tỉnh nhỏ, khi học xong Trung Học đệ nhị cấp phải về
thành phố để thi Tú Tài. Một người bạn cùng lớp đã rũ tôi lên nhà bà cô của anh
để chuẫn bị ngày thi. Căn gác trọ nằm trên đường Nguyễn Cư Trinh. Căn nhà số
105 ngày đó là một nhà gỗ hai tầng. Phía dưới dùng làm kho chứa đồ. Tầng trên
dùng làm sinh hoạt cho cả gia đình.
Ðó là những năm của thập niên 60. Lúc đó
bến xe đò lục tỉnh nằm hai bên đường Nguyễn Cư Trinh, chưa dời ra ngoại ô. Mỗi
tháng thay đổi vị trí chỗ đậu xe một lần. Tháng trước xe về đậu bên này đường.
Tháng sau về đậu phía bên kia. Sự huyên náo, ồn ào chia đều cho hai bên và người
dân hai khu phố quen thuộc với những hoạt cảnh mỗi ngày. Từ một buổi sáng nào
đó, trên căn gác trọ số 105, tôi nhìn xuống con đường và những đời xe tất tả,
xuôi ngược, tôi thấy hết nhịp sống của Sài Gòn. Mọi loại xe đều hiện diện trong
ngần ấy không gian chật chội, giữa những tiếng động nhức nhối. Tiếng kèn xe, tiếng
máy nổ chờ lăn bánh, tiếng rao hàng, tiếng cải cọ, tiếng đồ vật rơi đổ, tiếng một
con chó gầm gừ do bị đánh bởi một bà bán hàng nóng tính, tiếng chọc ghẹo, tỏ tình sỗ
sàng từ những người lơ xe bạt mạng giang hồ với các cô gái bán hàng. Xen lẫn giữa
mùi thơm của cà phê, của hủ tiếu và hơi thuốc lào là mùi cống rãnh nghẹt ứ, mùi
rác rến tùy tiện.
Cái nhịp đời đó không bao giờ nằm im
trong trí nhớ tôi. Nó vẫn sừng sững dù nhiều năm bể dâu biến động. Vì nó đánh dấu
một mối tình mới lớn. Người con gái của hơn bốn chục năm về trước mà tôi từng
yêu khi về sống tại Sài Gòn. Căn gác ván cũ kỹ, (sau này được xây ba tầng gạch,
nhưng vẫn chật chội bề ngang) mỗi đêm tôi về nghe lại tiếng cười và tiếng nói
chuyện của những cô gái con bà chủ nhà người Bắc. Nhà không có đàn ông. Những bữa
cơm tối muộn màng vì mọi người bận bán hàng ở chợ Thái Bình, tôi đói bụng lén xuống
đường kiếm món gì ăn đỡ dạ. Tôi biết buồn và biết đau khổ từ những ngày đó. Và
cũng biết thêm những thôi thúc giang hồ theo tiếng kèn xe. Nơi căn gác còn có
thêm một bà cô mù suốt ngày ngồi một mình, nghe tiếng bước chân chúng tôi lên
gác mà mừng rỡ. Tôi biết bà thương tôi và kỳ vọng ở tôi một chàng cháu rể không
cứng đầu. Những con mèo tam thể ẻo lả nằm quấn quít cạnh bà trong khi tôi lắng
nghe bà kể lể chuyện đời. Ðôi lúc câu chuyện của bà bị ngắt quãng vì tiếng cãi
lộn bên dưới. Những tiếng chửi thề và nhiếc móc đay nghiến nhau của những đôi vợ
chồng vọng lên căn gác, như những vết cắt đau điếng làm cho đời sống thêm sần
sượng, gai góc. Cái góc phòng chật hẹp và bề bộn những tiếng động đó nhưng đại
diện cho một Sàigòn lớn lao.
Bây giờ, một vài người nơi căn nhà 105
đó vẫn còn. Những người lớn thì đã mất vì thời gian -trong đó có bà cô chủ nhà
và bà cô mù. Một trong ba người con gái nơi căn gác đó vẫn không chịu có chồng
và sống thui thủi một mình bên những ngày tháng rời rộng khổ đau nhưng thiếu vắng
hơi thở hạnh phúc. Tôi chắc như vậy vì sau một cuộc đổi đời mọi đời sống đều
như vậy. Tôi không biết trong tâm hồn người con gái lở thì đó có bao nhiêu hình
ảnh của tôi, có bao nhiêu khoảng trống cho một kẻ giang hồ như tôi cư ngụ?
Nhưng với tôi, tình yêu tự nó thu xếp những chổ trú trong tim. Nó giống như những
chuyến xe đò mỗi chiều về tìm bến đậu. Có một lúc nào, tự chính nó, vì bận rong
chơi trên đường dài, lúc tàn cuộc quay về, sẽ mất hẳn một chỗ nằm khiêm tốn qua
đêm. Chỉ tội nghiệp cho những quang gánh chất đầy mộng ước, bị bỏ quên dưới gầm
xe vì không có người thu nhặt, phải chờ đến bình minh...
Một buổi chiều chủ nhật, trước ngày thi
một ngày trời đổ mưa. Mưa dai dẳng từ buổi trưa, kéo dài đến chiều tối. Tiếng
mưa gõ buồn bã trên các mái tôn cũ nghèo. Trên những mâm cơm tức tửi nỗi cơ
hàn. Tôi đứng trú mưa giữa hành lang nối liền hai dãy nhà, lòng trống trãi một
quạnh hiu. Vẵng đâu đây từ một chiếc radio, tiếng hát Phương Dung vọng xuống.
Bài “Nỗi Buồn Gác Trọ”.
Tiếng hát ráo hoảnh giữa những dòng mưa.
Tiếng hát chạy thêng thang trên những lòng đường bên dưới. Con nhạn trắng Gò
Công giữa những thập niên 60, vừa vươn cánh bay xa khỏi ruộng lúa và những bờ
sông phèn lợ phù sa để bay về thành phố. Tiếng
hát chơn chất miền nam đôi lúc bay cao như cánh diều, đôi lúc la đà như sương mỏng.
Bâng khuâng gác vắng khêu tim đèn đêm
Nhớ nhung đi vào quên
Sông sâu cố nhân ơi đi về đâu
Gởi hồn chìm vào đôi mắt
Ái ân chưa trọn để ngàn đời nhớ nhau...
Phố nhỏ đường mưa trơn lối về
Trăng sầu nhân thế đọng hoen mi
Có ai ngồi đếm mùa nhung nhớ
Nỗi niềm đầy lại vơi
Mỗi mùa tiển đưa một người...”
Nàng hát cho ai nghe giữa một lòng mưa hắt
hiu như vậy? Không phải cho tôi nhưng sao tôi cảm giác được nỗi chông chênh gập
ghềnh, một mai khi bước xuống cuộc đời. ”Mỗi mùa tiễn đưa một người...”
Tôi không biết sáng mai tôi có thể hoàn
tất những bài thi hay không, nhưng chưa gì tôi đã hình dung ra ngày niêm yết
danh sách không có tôi đứng lẫn lộn giữa đám đông để rà soát tên mình. Lũ lượt
những đứa học trò vượt qua biển dâu. Cũng như có những đứa học trò cam tâm chấp
nhận ngày đi lính. Tôi là một trong những số đó. Ngày thi tôi nạp bài thật sớm
và không buồn ký tên vào phiếu hồ sơ. Những quỹ tích, hàm số biến mất không để
lại dấu vết trong đầu. Những bào tử, những bộ phận tim gan phéo phổi con người
cũng vậy. Chỉ còn lại tiếng hát trong vút mượt mà nhưng đậm một một tình yêu
tan vỡ. Người con gái đó chắc không biết tiếng hát của mình từ một buổi chiều
mùa hạ đã làm cháy bỏng một đời trai. Nàng cũng không biết giọng ca ướt sũng lời
mưa của mình đã níu chân một đứa con trai đứng lại bên ngoài cổng thiên đường.
Sáng mai, sẽ có một người thu vén một chổ ngồi trên chuyến xe đò để xuôi giạt về
quê. Chắc nỗi buồn sẽ lớn lao và làm cay mắt. Nhưng bù lại, đời sống cũng vừa
thu nhập một vốn liếng khác, là sự lãng mạn ngọt ngào.
Nhiều chục năm sau, tôi vẫn luôn ngưỡng
mộ về một giọng hát chơn chất đó như ngày nào chưa trưởng thành. Nếu một tiếng
hát hay một bài ca đều phảng phất một định mệnh, thì tại sao chúng ta lại từ chối
nắm bắt trong tay một định mệnh và ủ nó trong lòng?
Chúng ta không thể làm khác hơn với một
hạnh phúc hay một tan vỡ- vì tất cả đều biểu lộ một tính chất mạnh mẻ của đời sống.
Chúng tượng trưng cho một đời sống không thể chọn lựa khác hơn.
Khoảng trời xưa của tôi. Tiếng hát hạnh
phúc cũ của tôi. Mọi thứ hình như đã xa rồi. Bây giờ chỉ còn lại tiếng gió đang
rượt đuổi theo sau vòng quay của bánh xe, mệt lã như vòng đời. Gió không biết
buồn nhưng gió luôn vùi lấp những khao khát. Gió cũng ít khi bùng lên những hi
vọng buồn bã.
Tiếng hát dội vào lòng tôi như điềm dự
báo một số phận. Lần đầu tiên trong buổi chiều xa nhà, tôi cảm biết rằng tình
yêu sẽ làm cho con người ta lớn lao hơn hay bé nhỏ hơn. Lần đầu tiên tôi cảm biết
rằng đời sống có những giá trị khác, tuyệt vời hơn. Không phải đơn điệu chỉ màu
sắc của cơm áo, của công danh hay những thành đạt. Mà còn có sự lãng mạn của nắng
mưa, của thời tiết. Của hạnh phúc và những đau khổ trộn lẫn. Của tình yêu tơi tả,
bầm vập vì không tìm ra lối thoát.
“Mỗi mùa vắng đi một người”. Như mỗi đứa
học trò sẽ trụ lại hay sẽ rời bỏ trường lớp sau một mùa thi. Ðể trôi lăn trên
những vòng đời chóng mặt?
Năm đó tôi thi rớt Tú Tài 1. Tôi nạp bài
thi trước hết và ra khỏi phòng. Lòng tôi trống trải như bến xe đêm về sáng.
Không còn tồn động một phương trình hay một định lý nào trong trí tôi. Tôi lang
thang gần nửa ngày, qua rất nhiều ngả tư ồn ào xe cộ. Qua những quán cà phê và
những cô chủ quán yêu kiều. Tôi tập làm người lớn và tập hút điếu thuốc đầu
tiên trong đời. Khói thuốc sẽ làm khô môi nhưng ướt sũng hạnh phúc được pha chế
bằng mùi vị đau khổ. Những vòng khói níu chân tôi bước xuống cuộc đời và tôi
nghe trong đó hương thơm của sầu mộng. Những vòng khói quấn quít, như những
vòng tay ôm.
3.
Mỗi người có một định mệnh từ một cuốn
phim hay một bài hát. Tôi không ra ngoài ngoại lệ. Bài hát Nỗi Buồn Gác Trọ đã
cắt hồn tôi thành hai mảnh đời. Và tôi sẽ không bao giờ ghép hai nửa mảnh đời
đó nhập lại cùng nhau. Nhiều năm trôi qua, tôi vẫn không thể quên được giọng
hát làm trái tim tôi trầy trụa. Tiếng hát cắm vào hồn tôi những chiếc gai nhức
nhối có khả năng làm rơi máu lệ. Tiếng hát như một định mệnh đẩy tôi trôi trên
những nhánh sông buồn.
Con nhạn trắng Gò Công chắc không thể
hình dung được rằng cách đây đúng 40 năm, tiếng hát của nàng đã gây cho tâm hồn
đứa con trai mười tám tuổi cơn địa chấn. Không phải cấp 4 hay cấp 5. Mà là cơn
địa chấn ngọt ngào hơi thở của môi miệng và ràn rụa của nước mắt.
Nhiều năm trôi qua, hồn tôi vẫn còn rung
động như ngày nào, khi nghe lại Nỗi Buồn Gác Trọ. Vẫn in như ngày mới lớn, vẫn
mới mẻ ngần ấy những rung động.
Nhiều năm trôi qua. Từng có biết bao
nhiêu gác trọ hiện ra bên cạnh cuộc đời. Một lần ở khu Bàn Cờ. Một lần ở Bảo Lộc.
Một lần ở Chi Lăng, ở đường Hai Bà Trưng, Ðà Lạt. Vài gác trọ trên đất nước người
có danh xưng khô khốc là Motel, bên những chặng nghỉ đường dài. Nhưng sự rung động
bớt đi những sôi nổi, bồi hồi.
Hình như chúng chỉ tiếp nối những định mệnh,
chớ không phải bắt đầu một định mệnh.
PNY.