Thursday, September 26, 2013

bến sông trí nhớ


Thư viết từ đường Heatherglen
Phạm Ngũ Yên

Tặng Võ Như Lăng, Hồ Danh Lịch


1.

Một ngày quẩn quanh tiếng gió chạm trên đường, khi đêm chưa kịp về thắp sáng những ngọn điện. Những vì sao chờ đợi nhấp nháy một niềm tin. Thành phố nơi tôi sống đang chộn rộn những tin tức sôi động của chiến tranh, của giá lên xuống xăng dầu. Tôi đi qua những nhịp cầu vòng vo dẫn về điện Capitol. Qua những thung lũng ngút ngàn một màu xanh để chỉ tìm một quán cà phê có chỗ ngồi thoải mái. Thời gian lầm lũi bên ngoài.

Mùa xuân chói chan những góc phố nắng. Hơi nước bốc lên ràn rụa như hơi thở trên môi người đàn bà. Sự buồn bã bắt đầu từ một bài thơ cũ. Như một vết thương cũ trong lòng. Dưới đáy ly cà phê đã không còn hơi nóng, hình như đã nghe ngấm ngầm sự tan vỡ.

Người đàn bà vừa hời hợt quay lưng. Trong khi tôi mệt lã nhìn đời sống cuốn trôi đi những hi vọng. Mới ngày nào nàng còn vui vẻ đi bên cạnh tôi, giờ đã nguội lạnh những tia lửa cháy trong lòng. Rồi lá sẽ vàng dưới thăm thẳm trời xanh. Nàng sẽ khác xưa như mọi tình yêu nào cũng vậy.

Sinh nhật vừa qua con gái tôi mua cho tôi một chiếc cà vạt sặc sỡ để mang trong những dịp lễ lạc. Nó chọn màu đỏ xen lẫn với màu tím than. Mới đầu tôi tỏ ý không thích, nhưng dần dà tôi thấy coi cũng được. Màu tím nhắc tôi một tình yêu phai lạt bên kia đời. Nơi có một người đàn bà vừa ngậm ngùi một son sắc. Vài lần tôi mang nó đi dự đám cưới. Vài lần đi hội họp trong cộng đồng. Thành phố Austin nóng cháy da trong mùa hè. Nhưng mùa xuân lúc này đang tràn đầy giông bão. Màu sắc của chiếc cà vạt trên cổ tôi giống như ngọn lửa đơn điệu bất chợt cháy trong tim người đàn ông già. Bao nhiêu năm tháng chồng chất theo nhau trong đó nỗi buồn vùi chôn một non trẻ.

2.

Quê ngoại tôi ở bên kia cầu Cỏ May, có tên là Vũng Vằng, cách Vũng Tàu 25 cây số. Ðó là một làng xã hẻo lánh và quê mùa. Ngày đó Vũng Vằng là một xả nhỏ thuộc quận Long Ðiền. Sau nầy thời đệ nhứt Cộng Hòa Long Ðiền sát nhập cùng với Bà Rịa để trở thành tỉnh Phước Tuy. Tất cả đất đai thuộc phạm vi Long Ðiền- Bà Rịa khởi đầu do quân lính của vua Gia Long khai phá trong thời gian Nam Tiến.

Vũng Vằng là một vùng đất nằm giữa biển và sông, đặt biệt có các ruộng muối vuông vứt như mặt bàn cờ. Mùa hè muối phản chiếu mặt trời lấp lánh giống như những chiếc gương vĩ đại. Cuối tháng năm, khi bắt đầu có những cơn gió mùa thổi về và sắp có những cơn mưa dầm, người ta cào muối lại thành đống và đậy đệm cẩn thận, sau đó chuyển vào vựa, trước khi bỏ vào các bao đệm, đem bán trên Sài gòn.

Thời thơ ấu của tôi đơn điệu trôi qua những ruộng muối như vậy. Bên những cánh cò trắng ẻo lả bay lượn trên những ruộng lúa mơ màng. Tôi chưa kịp đến trường vì còn nhỏ. Ðất đai không sinh lợi nhiều ngoài những tôm cá hạn chế được đánh bắt từ bến sông và chờ đợi một mùa muối tràn trề. Dân làng không đông, chỉ có vài chục nóc nhà mọc ven mé sông quây quần chung quanh một bến ghe nhỏ. Trời thương dân làng nên đời sống kinh tế quanh năm đủ ăn, không bị mất mùa. Vì là mãnh đất nằm giữa biển và sông nên nước ở đây không mặn không ngọt, mà lờ lợ. Ðó là nước dùng để xài và giặt giũ. Nước uống thì lấy lên từ một cái giếng duy nhất trong làng. Nước ngọt trào ra quanh năm từ lòng giếng bên dưới như một phép lạ. Truyền thuyết kể rằng khi Vua Gia Long khai khẩn đến vùng đất nầy, không tìm thấy nước ngọt để dùng, Ngài đưa quan binh đến giữa làng, cúng tế và sau khi cầu nguyện, Ngài chỉ vào một nơi và bắt binh sĩ đào giếng

Mọi người không ai hi vọng sẽ tìm thấy mạch nước vì đất chung quanh nơi đó có pha trộn đá vôi. Nhưng khi đào sâu chừng vài sải tay, nước ngọt từ trong lòng đất tuôn ra. Kể từ đó, dân chúng gọi là giếng Gia Long. Càng ngày, giếng được xây thêm bằng đá chung quanh để ngăn mưa lũ. Việc lấy nước từ dưới lên chỉ dành cho đàn ông trai tráng. Ðàn bà con gái không được được lấy.

Cuối những năm 40, người Nhật còn cai trị và chiếm đóng miền Nam. Trong ký ức của tôi còn nhớ những người lính mặc đổ kaki vàng mang kiếm đi lại trong vùng. Họ đồn trú trong một trại lính bên kia sông. Buổi sáng mẹ tôi ra giặt giũ ngoài bờ sông, gần nhà. Tôi xẩn bẩn bên cạnh bà trong khi nhìn những người lính lố nhố bên kia bờ. Dáng điệu của họ làm tôi sợ hãi.

Có những chuyện không đầu không đuôi trong giấc ngủ và sáng ra tôi buồn. Những tiếng chim sầu muộn rớt bên cánh đồng và con nước lên xuống từng ngày.

Tôi còn phải kể ra đây những cánh diều bay trên tuổi thơ của tôi. Ðối với tôi, chúng là những hình ảnh rất thơ mộng và chất đầy mơ ước. Những cánh diều ngẩn ngơ bay trên bầu trời xanh mà sợi dây lúc nào cũng ngắn.

Khi lớn khôn, tôi không còn có cơ hội để tự mình  chạy theo những cánh diều. Tôi cũng không còn thì giờ để làm thủ công một con diều như ngày xưa như ông ngoại tôi đã làm cho tôi. Ðồng ruộng đã dần dà mất đi thay vào đó những đường phố, nhà cửa. Khung trời cũng hẹp theo cùng với đất đai.

Bà ngoại tôi mở một quán nhỏ bên bờ sông. Quán không có gì nhiều ngoài một vài món đồ dùng cho việc bếp núc. Vài chai nước mấm. Vài chai dấm. Vài hủ chao. Vài hủ đường tán màu vàng sậm còn dính những sợi mía. Một thùng dầu hôi mang hiệu con gà trống. Bên vách lá ngã màu thời gian, bà treo vài con khô mực, khô đuối, khô sặc dành cho dân nhậu. Và quan trọng nhất, là những bình rượu đế luôn được châm đầy mỗi tuần.

Bà ngoại thức dậy từ khuya để chuẫn bị cà phê cho khách. Ðó là những nông dân phải ra đồng sớm. Những người chủ ghe chuẫn bị cho một chuyển đi. Những bạn hàng cũng ghé lại quán của ngoại tôi để nói dăm ba câu chuyện trước khi đón xe ra chợ Bà Rịa. Tôi ngủ phía sau vách ngăn phía sau quán. Giấc ngũ bị ngắt quãng nhiều lần, theo những câu chuyện khi lớn khi nhỏ, giống như âm điệu một lời ru.

Nhiều đêm, tôi cố gắng thức thật khuya để theo dõi một vài hoạt cảnh huyên náo ngoài bến sông, khi ghe thuyền cập bến. Những người đàn ông da đen nhẻm vì nắng gió sông hồ, áo phanh ngực và lúc nào cũng đi chân không, vào ngồi đầy những băng ghế trước quán. Những xâu cá, những con cua được họ mang từ dưới ghe lên và nhờ ngoại tôi nướng dùm. Mùi thơm bay lên ngào ngạt cả một góc quán làm tôi thèm thuồng. Họ nói đủ thứ chuyện mưa nắng, chuyện mùa màng. Chuyện những cảnh đời ngang trái rút ra từ những tuồng hát đương thời. Lâu lâu có người dể tính xoa đầu tôi và dúi vào tay tôi một một miếng khô nóng hổi. Tôi bỏ nhanh vào miệng để thưởng thức mùi vị đặt biệt của thức ăn, trước khi bà ngoại rầy tôi: “Con nít con nôi không được xẩn bẩn bên bàn rượu của người lớn...”

Tôi không biết tại sao có những điều thuộc về người lớn mà con nít không được tham dự vào. Bốn năm tuổi tôi chưa đi học để hiểu rõ những tác hại của rượu chè, nhậu nhẹt. Tôi chỉ cảm thấy thú vị khi được chứng kiến những sinh động của người lớn. Tôi muốn được thức khuya như họ và ăn những món ăn ngon lạ lùng được lấy ra từ lò than nóng. Tôi muốn được vui như họ và buồn như họ.

Nhưng tôi không thể thu về những điều đơn giản như vậy vì vòng tay còn non yếu quá. Nhiều chục năm sau, tôi có cơ hội để nắm bắt những giá trị thơ ấu trong tay thì tôi đã mất đi niềm háo hức. Những ly rượu và những món đồ nhắm đưa cay từ một quán gió bên đường, chỉ có cảm giác sảng khoái trong vài phút giây, chớ không làm đậm đà dài lâu hạnh phúc đầu đời.

Một hôm, không biết ông ngoại tôi đem về từ đâu một chiếc máy hát quay bằng dây thiều. Thời đó chưa thịnh hành những chiếc rađio, những băng cassette. Cho nên chiếc máy hát nhỏ như vậy đã làm xôn xao mọi người và quy tụ biết bao thanh niên và thiếu nữ trong làng đến ngồi quán của ngoại tôi.

Ðêm tối mênh mông những cánh gió bên ngoài sông. Tiếng nước chạm vào khoang thuyền đang ngủ yên như tiếng nhịp của sên phách. Tôi bị cuốn hút vào những điều lạ lùng từ chiếc máy hát có hình dáng một chiếc hộp vuông màu đen kia, có một tay quay bên hông. Và những đĩa hát bằng mi ca có nhiều vòng trên mặt. Lúc đó tôi nghe người lớn nói về những đĩa hát có tên là Asia đang thịnh hành tại Sài Gòn. Những tài danh thời đó là Thành Công, Bạch Huệ. Sau nầy là Út Trà ôn, Út Bạch Lan, Thành Ðược...

Ðĩa hát mà ông ngoại tôi có được có hai bài vọng cổ có tựa là “Tình Mẫu Tử” và “Mổ Tim Tĩ Cang”, hình như do nghệ sĩ Thành Công và Bạch Huệ trình bày. Tôi còn nhớ câu đầu trong “Tình Mẫu Tử” như thế nầy:

“Con ơi tháng chạp tới đây là ngày mà tên con sẽ ghi vào cuốn sổ nhân duyên, trên cung đàn bấm phím tơ loan hòa bản cầm sắc cho duyên con trẻ được bền duyên giai ngẫu...” Lời ca ướt rượt của Bạch Huệ làm thổn thức những người phụ nữ có mặt. Như tiếng một đời mưa trên một bến sông buồn. Nội dung viết về tâm tình của người mẹ sắp sửa chia tay với con gái mai này về nhà chồng. Bao nhiêu trìu mến và kỳ vọng gởi đến đứa con thân yêu mà bất cứ một bà mẹ Việt Nam nào cũng đều trải qua.

Ðôi lúc những vòng trên đĩa hát bị trầy, tiếng ca bị cà lăm làm mọi người buồn cười. Lúc đó ông ngoại tôi lấy tay nâng cái đầu kim lên để cho đĩa xoay qua một vài vòng và đặt xuống lại, tiếng ca tiếp tục như cũ. Ðôi khi đang hát nửa chừng, âm thanh bị chùng xuống, hụt hơi, ông ngoại tôi lại dùng tay lên dây thiều bằng cái tay quay bên hông máy.

Trong trí óc thơ dại của tôi ngày đó, tôi không biết làm sao mà hai ba người có thể nằm gọn trong một chiếc thùng nhỏ xíu như vậy để cất lên tiếng hát làm rung động lòng người. Tôi đi vòng vòng chung quanh máy để xem coi có một cánh cửa bí mật nào hay không. Tôi cũng xin với ông ngoại cho tôi được “quay dây thiều” mỗi khi tiếng ca bị nhão. Lúc đầu ông ngoại tôi không cho, nhưng sau đó chìu theo ý muốn của tôi và dạy tôi quay. Nhưng khả năng của tôi chỉ có thể quay được vài tua là hết sức, rồi bỏ cuộc.

Khi tôi hoàn thành được cái công việc đơn giản đó, là quay được nhiều vòng cho dây thiều căng lại, là đến lúc tôi không còn sống tại Vũng Vằng. Ba má tôi chuyển về Vũng Tàu để làm ăn và cho chúng tôi có cơ hội đến trường.

Tôi luyến tiếc cái quán nhỏ của bà ngoại tôi. Những đêm về sáng choàng thức vì nghe có tiếng người vào mua đồ trong quán. Những đêm mưa tiếng mưa bay trên mái nhà lợp bằng lá dừa nước. Những mái chèo buông rơi lọt thõm xuống mặt sông váng vất phù sa cùng lá bần tươi trôi dập dềnh.

Tôi cũng nhớ ruộng muối quanh năm lấp lánh màu bạc vì phản chiếu ánh sáng mặt trời. Nhớ những vai áo bà ba đen lâu ngày trở thành màu bùn của những người thợ cào muối. Nhớ chiếc giếng Gia Long mà nhiều đêm đã chứng kiến những lời tỏ tình đằm thắm của các thanh niên lấy nước với các cô gái chung làng. Tiếng gầu rơi xuống lòng giếng lạnh tăm như tiếng trái tim rớt ngang trên một bài vọng cổ.

Cái tình quê như vậy hình như không còn đi theo tôi suốt những ngày khôn lớn. Nó không có mặt hay bị chìm khuất trong cái hỗn độn của đời sống đương thời và cái u ám của chiến tranh. Tôi đi vào đời không còn nghe những âm thanh êm đềm nơi quê ngoại. Không còn thấy trên đầu những cánh diều ngơ ngẩn để trì kéo sợi dây mơ ước như trì kéo hạnh phúc tươi non.

Người ta nói sự thổn thức về một quê hương chỉ có thể hiện hữu và lên tiếng một khi trái tim ướp đầy hương vị của quá khứ. Như một sợi dây đàn chỉ có thể bật lên một âm điệu khi căng thẳng, tình yêu quê cũng vậy. Chỉ có thể rung động và ngào ngạt những cảm xúc, khi con người chạm đến một khổ đau.

3.

Lâu quá rồi, tôi không còn cơ hội để nhắc lại cho con gái tôi một âm vọng đã từng rung lên từ một sợi dây đàn. Tuổi con tôi, bây giờ chắc cũng không đủ trình độ để nghe được những điều như vậy, đàng sau cái trí nhớ già nua của ba nó.

Năm nay nó 20 tuổi. Nó vừa qua hết Trung Học và đang vào học trường ACC gần nhà. Nó vừa đi học vừa đi làm và cách đây một tháng nó vừa thay đổi việc làm lần thứ ba. Mùa xuân nó phóng xe chạy trên đường cùng với tiếng gió rít bên ngoài kính xe. Nó không có một quá khứ tròn trịa để quay về với bước đi đầu tiên. Khi chập chững vào đời. Mọi thứ đều có sẳn với tiện nghi của Mỹ Quốc.

Những vì sao rưng rưng một đêm nào khi tôi chạy từ San Antonio về. Khung trời lạc lõng trên đầu nhắc tôi một quá khứ vỡ òa. Nơi có tiếng mưa rơi ào ạt trên mái nhà ngoại tôi. Nơi có dòng sông đen ngòm ở một khúc quành vì phù sa tụ lại. Tôi không biết con sóng vô tư có còn mãi đập vào hông thuyền như ngày tôi còn nhỏ?

Khi tôi vào lính, làng cũ đã đổi tên. Tôi không một lần ghé về thăm. Tâm hồn tôi chỉ còn lại một màu xanh ngỡ ngàng của biển. Mọi thứ tuột khỏi trí nhớ tôi ít nhiều.

Sau năm 75, nghĩa là sau một cuộc đổi đời, làng cũ của tôi nghe nói trở thành một hợp tác xã làm muối. Những trái tim đôn hậu đã bị muối làm cho rĩ sét và bến sông nghe nói ghe thuyền không được đậu lại vì “nhà nước” sợ dân làng tổ chức vượt biên.

Không phải mọi dòng sông đều có riêng một tiếng nói. Dòng sông quê ngoại của tôi cũng vậy. Nó chỉ có tiếng nói riêng một khi lòng sông tự nó ngậm chật phù sa làm bằng những tình tự của chính người sống nơi đó.  Những phù sa vô tư chảy hoài trên mọi thời gian, sẽ rất chân thật vì nơi đầu nguồn chứa đựng những tấm lòng đôn hậu của cha ông. Không hề biết có căm thù giai cấp. Sự đau khổ của những người sanh ra trước tôi, trong thế hệ thứ nhứt, đã quá thừa. Chúng ẩm ướt mồ hôi nước mắt và chật chội một hồn sông.

Khi tôi về Vũng Tàu và lớn lên theo những bè bạn chung quanh, thì đêm thị thành đã hiếm hoi những vầng trăng và ngày sẽ không còn một cánh diều. Mỗi ngày, tôi chờ đợi một tiếng chim rơi sầu muộn mang giai điệu cánh đồng để ôn lại một bài học đầu đời? Nơi khởi đầu một trang cổ tích?

4.

Qua rồi những ngày mưa bão đem cái rét mướt lạ lùng đậu xuống vầng trán em, khi tôi chở em đi quanh ngọn đồi vùng Lopp 1. Hôm nay vẫn con đường này nhưng tâm hồn tôi và em đang ướt đẫm mưa bụi. Mới tuần rồi buổi sáng có tin tức bão loan đi và người ta co ro đi dưới cây sơn táo để băng qua quán cà phê bên kia đường. Sự lãng mạn của mưa và sự nồng nàn của hương tóc em trộn lẫn vào nhau tạo thành một hạnh phúc làm ngại ngùng những bước chân. Vài con chim đen đứng núp trong bụi dẽ bộp dáng điệu áo não. Biết làm sao để đi về dưới lòng mưa mà trái tim vẫn ấm hương lửa tình đầu và manh áo cơ hàn vẫn đủ che một lòng rách nát?

Có những lúc mà tình yêu chỉ còn lại một người một mình đi trên con đường dài qua đổi. Phía đầu kia không có ai. Phía đầu nầy là mênh mông của đời sống. Năm tháng đi qua âm thầm và nhạt nhòa một hạnh phúc.

Ðâu rồi nụ cười và ánh mắt rực lửa một ngày đông khi tôi cùng nàng đi vào quán cà phê. Những sợi khói bốc lên từ chiếc tách như hơi thở nồng ấm bên vai. Khi tôi hôn nàng, vệt son trên môi cũng ngọt mùi đường.

Sài Gòn mùa này cũng mưa nắng thất thường. Nghe nói có vài nơi bị ngập và hai bên đường nước tràn lan như mặt sông. Thành phố đang trở mình như thịt da chờ nghe lời ân ái. Gió lạnh thổi về trên những cuống lá sắp đổi màu. Những ngỏ xưa quen ngậm những hòn gạch nồng nàn bước chân người qua lại. Vài khóm hoa giấy vươn mình trên các tường gạch loang lổ màu vôi. Hình như bao giờ cũng vậy. Gió dù khẻ khàng nhưng cũng làm cho người ta cảm nhận được rét mướt.

Khi tôi vào lính, không có nhiều kỷ niệm để tôi đem theo làm hành trang vào quân trường. Ngôi nhà cũ dưới chân núi Lớn Vũng Tàu. Những cây bàng già rụng sớm những chồi non vì gió biển ùa lên mỗi ngày. Những con còng đuổi theo nhau về đâu trên bãi cát nước ròng? Một góc kia, nơi có quán cà phê Năm Tròn, vài khoang thuyền làm biếng không ra khơi. Mọi thứ góp lại, đã làm nhức nhối tâm hồn đứa con trai không muốn đi xuống cuộc đời. Và còn nữa, những mối tình thơ dại...

Năm 1965 tôi quyết định bỏ học vì không còn tha thiết đến chuyện sách vở. Tuần lễ cuối của tháng 7 tôi đạp xe đến thăm một người bạn gái.  Buổi chiều vừa ướt át một cơn mưa. Tôi không biết nàng có để trong trái tim một chút nắng hanh ngày hôm qua vừa tàn và thời gian có xóa đi những dấu vết quen thuộc. Hay ngậm mãi vết thương trong lòng như tôi.

Tôi đưa nàng ra quán sinh tố đối diện với khu nhà lồng Chợ Vũng Tàu. Quán có tên là Phương Lan. Bên kia đường Trưng Nhị, căn tiệm mang tên Nguyễn Văn Tư, có bạn tôi là Nguyễn Thanh Điền đi ra đi vào. Ðâu đó dòng nhạc vang lên lời hát trong ca khúc TOUS LES GARÇONS ET LES FILLES do  Françoise Hardy hát. Một tiếng hát thời thượng của thập niên 60.  Bài hát cũ nhưng luôn mới mẻ trong lòng những người đang yêu nhau.

Bản nhạc sau nầy do Thanh Lan ca, thịnh hành trong các phòng trà và trong các băng nhạc trước 1975:

Tous les garçons et les filles de mon âge
Se promènent dans la rue deux par deux
Tous les garçons et les filles de mon âge
Savent bien ce que c'est qu'être heureux
Et les yeux dans les yeux
Et la main dans la main
Ils s'en vont amoureux
Sans peur du lendemain
Oui mais moi, je vais seule
Par les rues, l'âme en peine
Oui mais moi, je vais seule
Car personne ne m'aime.
Mes jours comme mes nuits
Sont en tous points pareils
Sans joie et pleins d'ennui

(lời Pháp)

Tôi đi xa, nhưng vẫn nhớ Vũng Tàu.  Nhớ Sài Gòn. Nỗi nhớ bồn chồn của từng đêm vắng. Vì từ những đêm hoang như vậy, tôi trưởng thành. Tôi biết đau khổ và biết tương tư một tiếng cười, một giọng nói. Những người con gái đại diện cho những mối tình 50 phần trăm. Những gót son hồng chưa nhuốm màu tro đất.

Mùa xuân đến rồi mùa xuân đi. Không một lời chào thăm hay một lời từ giả. Rồi mùa hè sẽ trở về. Những chùm phượng đỏ nằm trong sân trường thương cuộc đời ngắn ngủi. Và tiếng ve sầu báo hiệu một tình yêu.

Ly sinh tố mãng cầu xiêm trước mặt nàng và ly cà phê cho tôi. Em nhìn xuống lòng bàn tay rối chỉ nghe lạ một tình đầu. Còn tôi, hình ảnh nào bên kia đường phù hoa để mộng đêm về trăn trở? Ðể ghi trong lòng những xúc động mới mẻ về một thời học trò. Trong đó có lần tôi dùng dao khắc tên người yêu trên mặt bàn. Gió đêm thổi từ biển về, nghe hiu hắt vì chạm phải phố xá hai bên. Qua những ngã tư xô lệch những khung tường vàng rêu và những con chó quanh quẩn bên các thùng rác. Ðời sống hổn độn những tiếng xe hai bánh gầm rú và tiếng khẻ khàng của thời gian trộn lẫn vào nhau.

Một lúc bàn tay nàng nằm trong bàn tay tôi. Biết bao giờ giây phút này trùng lập lại, dù muộn màng. Như một bản đàn vang lên một cung bậc mới, sự chia tay sẽ vang lên lời hẹn hò tái ngộ.

Tôi rời xa nàng từ hôm đó.

Chiếc xe nhà binh đưa tôi vào trình diện Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ. Việc đầu tiên là tôi đến phòng hớt tóc của quân trường để người thợ hớt tóc tu sửa lại mái tóc thư sinh. Những lọn tóc rụng xuống theo những nhịp kéo như tuổi trẻ rụng xuống bên hiên đời. Ðứa con trai nhìn vào gương thấy dội ra từ nơi đó hình ảnh một người khác. Ngô nghê và lạ lẫm. Quá khứ đã ào ạt bỏ đi. Không đọng lại một vết tích.

Buổi chiều tôi tìm đến những chiếc giường cá nhân dưới cây bả đậu. Những tân binh cũng đã quy tụ về đó như một chỗ dừng nghĩ tâm hồn. Vì họ đã tìm thấy dưới bóng mát của tàn lá kia sự chở che thật lòng.

Bầy chim sẻ ngoài hàng rào thôi không đậu xuống. Chúng bay mất để trong lòng những đứa con trai khao khát một lời chim. Vài ba người châm đỏ một điếu thuốc quân tiếp vụ và sau đó chuyền tay nhau. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy sự chia xẻ lạ lùng như vậy. Một người khác so dây đàn. Và tiếng hát bật lên từ một người khác nửa.

Nếu phải chờ đợi một niềm vui nhỏ mà có thật trong ngày tháng quân trường, tôi sẽ không ngại ngần mà nói ra một buổi chiều như vậy trong khi chờ chuyển trại. Chúng tôi quây quần bên nhau và tặng nhau những lời ban mai nắng mật. Những nụ cười làm hành trang cho một thời mười tám tuổi. Mai mốt ra đơn vị, ai biết ai sẽ còn lại hay mất mát giữa đời?

Người đàn ông ngồi trước mặt tôi có lẻ già trước tuổi đang nhìn xuống hai bàn chân có những ngón chân khô ráp của mình. Anh cất tiếng hát. Những sợi khói rụng rời, quấn quít từ một thanh quản khàn đục. Tiếng hát mà sau này khi ra hải ngoại tôi nghe được từ Tuấn Vũ. Cũng lướt thướt và mộng mị của khói thuốc. Của buồng phổi bị ém và những thanh âm bung ra giữa chừng:

“Mưa khuya hắt hiu xuyên qua mành, tình ngăn cách rồi.
Đêm qua trắng đêm mơ thương hình bóng cũ xa xôi
Em ơi! bước đi xa nhau rồi ngày vui đâu còn,
Ðèn vàng nhòa sương chưa tắt,
Khu phố xưa lạnh buồn tênh.

Hôm em bước lên xe hoa thềm nhà tươi pháo hồng
Em ơi! pháo vui như vô tình xé nát tim anh.
Bao nhiêu ước mơ nay phai tàn,
Tình ôi phũ phàng,
Một ngày dù duyên chưa thắm,
Chuyến đò xưa sao nỡ quên!

Thương còn thương những chiều đời chưa biết nhiều,
Nghẹn ngào nhìn nhau không nói.
Yêu còn yêu tiếng cười, ngày mới quen nhau,
Ngỡ ngàng tình trong mắt sâu.

Mưa khuya hắt hiu xuyên qua mảnh hồn đơn giá lạnh
Em ơi phố khuya bâng khuâng sầu buốt giá tim anh.
Hương xưa ái ân theo êm đềm vàng trăng giãi thềm.
Từng giờ buồn trông phố vắng, thắm hình em qua bóng đêm ...”

(Phố Vắng Em Rồi/ Mạnh Phát)

 

            Chiều trôi lặng lẽ và dường như gia nhập vào lòng đêm lúc nào không ai biết. Những cành lá của cây bả đậu vừa nhòe nhoẹt. Chỉ còn những đóm lửa chuyển động trên đôi môi khô khốc như một ánh điện mệt mõi Sài Gòn. Tôi nhớ tha thiết nàng. Nhớ đến một chiều mưa và ngụm cà phê nóng bỏng trong môi. Chiếc áo hở vai và mái tóc cột chặt phía sau thành một cái đuôi nhỏ. Ðôi lúc tôi trêu ghẹo nàng về cái đuôi đó. Nàng cười.

Mọi thứ, bổng như đóm lửa đang trở mình thao thức trên những đầu ngón tay. Mọi thứ đã xa, trong đó nỗi buồn xua đuổi niềm vui ra khỏi bờ cuộc sống. Những ngọn cỏ hấp hối bên đường thương cho cuộc đời ngắn ngủi.

5.

Nhiều khi tôi lẫn lộn giữa mộng và thực. Giữa một tình yêu thời mới lớn và một say đắm cuối đời. Tôi không biết mình có thể bình thản để tham dự vào những tình huống xãy ra với một cảm xúc chân thật. Có những vết thương tự nó lành miệng không cần băng bó. Nhưng cũng có những vết thương không thuốc nào chữa lành. Như buổi sáng nay, tôi ngồi nghe tiếng chim.

Tiếng của những con chim cu đất buổi sáng ở vùng  Nam Texas lúc nào cũng buồn và gợi cho chúng ta nhớ về thời niên thiếu an bình… Tiếng chim kêu rời rạc và lọt thõm vào vũng nắng rưng rưng, nghe như tiếng rớt đòi đoạn của một nhịp vọng cổ miền Nam. Người ta nói quá khứ không lớn lao nhưng nó làm nặng trái tim những kẻ luu vong. Bao nhiêu năm đổi đời dâu biển, tôi vẫn ủ chật một tiếng cười trong lòng. Ðàng sau tiếng cười đó là một cuộc tình phờ phạc. Trong khi nàng đã không còn giữ lại một chút gì để mang theo khi về nhà chồng. Nàng đốt tất cả hình ảnh, thư từ và những bài thơ tôi viết cho riêng nàng. Những món quà lưu niệm tôi làm cho nàng chắc cũng bị nàng tiêu hủy (một con bướm, một đóa phượng khô được ép vào quyển lưu bút). Nàng xóa sạch những chứng cứ như một can phạm xóa sạch những vết tích khi rời khỏi phạm trường.

Dẫu sao, đó vẫn là một thứ tro quá khứ của tình yêu mà tôi không muốn quên. Không thể quên. Và dù bây giờ tôi không còn đi bên cạnh nàng, không còn nhìn thấy lại đôi mắt rực lữa của thời mà hai thân thể bị cuốn hút vào nhau, nơi căn gác trọ nghèo nàn cạnh khu gia binh. Và những câu thơ của một mùa không ngủ…

PNY

 

Monday, September 23, 2013

ĐỂ TANG CHO SÁCH
KHUẤT ĐẨU

Bà tôi thường than thở, hết một nửa cơ nghiệp của nhà này đã tan tành theo sách. Một nửa cơ nghiệp nói cho to, cho xứng với nỗi đau tiếc của của bà, chứ thực ra chỉ vài trăm cuốn sách của ông tôi thôi. Có điều, đó không phải là những quyển sách bèo nhèo giấy rơm thô kệch, đang tràn ngập trong các hiệu sách, trong trường học và trong thư viện. Chưa nói tới nội dung, chỉ mới lật qua vài trang mờ nhoẹt vàng đục với những con chữ ốm o đói khát như những người bị sốt rét rừng là đã thấy chán lắm rồi.

Sách của ông tôi, bạn chỉ ngắm không thôi cũng đã thấy thích. Những cuốn tự điển của Pháp, của Việt, thư pháp của Trung Hoa, những sách thuốc, sách khoa học, những bộ tiểu thuyết của các nhà văn danh tiếng, những sách học làm người, những sách triết…đứng sát bên nhau phơi cái gáy mạ vàng như cả một đội ngự lâm quân thông thái và oai vệ. Trang nghiêm nhưng không lạnh lẽo, bọn họ là thầy là bạn của ông tôi. Và vì vậy, bạn cũng như tôi chỉ được phép đứng nhìn mà thôi.

Ông tôi là một người mê sách (cũng lại là cách nói vừa tấm tức vừa giận hờn của bà) mê hơn cả vợ con. Nếu bảo rằng “thư trung hữu nữ nhan như ngọc”, thì ông tôi tuy đã già nhưng lại có đến những mấy trăm người đẹp như các vua chúa ngày xưa, nên bà tôi “ghen” cũng phải.

Ông mê sách như người mê đồ cổ. Nghe ở đâu có sách quý là ông tìm tới dù có phải tốn kém tàu xe và phải bỏ ra cả một mòn tiền lớn để “rước” người có nhan như ngọc đó về, ông cũng dám chơi một phen cho thõa chí. Như cuốn Tự vị của Paulus Của, nghe đâu như là ấn bản đầu tiên của một ông cụ nào đó bắc bực làm cao đến tận giời, ông tôi đã phải lặn lội vào tận xứ Thủ Dầu Một xa lắc xa lơ để mua cho bằng được. Công cuộc mua quyển sách đó, chẳng những khiến ông mất đến mấy chỉ vàng, mà còn ốm một trận thừa sống thiếu chết.

Cuốn sách cũ đến nỗi như đã ngàn năm tuổi. Còn hơn một người chơi đồ cổ, ông tôi lại phải tốn thêm một món tiền và nhất là tốn rất nhiều thì giờ để nài nĩ và kiên nhẫn ngồi chờ anh thợ đóng sách đóng lại giùm. Lúc này quyển sách đối với ông như một con bệnh thập tử nhất sinh và anh thợ đóng sách cứ như một bác sĩ. Khi anh thợ tháo bung sách ra, ông đau nhói như thể gan ruột của mình cũng bị lôi ra như thế. Ông hồi hộp theo dõi từng mũi chỉ khâu, nín thở xem anh ta cắt xén, làm bìa. Cho đến khi sách được làm mới một cách khỏe mạnh, xinh đẹp, ông ôm quyển sách trước ngực như một người mẹ ôm đứa con bé bỏng vừa được bác sĩ cứu sống. Ông hết lời cảm ơn anh ta, đưa cho anh một tờ tiền lớn và hào phóng không nhận tiền thối lại. Đem quyển sách về nhà, ông lại mất cả buổi ngồi ngắm đến nỗi quên cả bữa cơm khiến bà tôi phải giục.

Đó là với những sách cũ quý hiếm. Còn sách mới, ông lại “phá của” một cách không giống ai. Sách nào ông cũng phải mua đến những hai quyển, một để đọc và cho mượn, một để nguyên không đụng tới. Những quyển sách để nguyên ấy nằm im trong tủ kính, mỗi lần mở ra là thơm nồng mùi giấy mới và mực in. Đối với ông, đó là một mùi thơm huyền hoặc đầy quyến rủ và mê đắm như những người nghiện nghe thấy mùi thuốc phiện. Chẳng những chỉ mùi thơm trinh nguyên không thôi, quyển sách vẫn còn trinh trắng khi hãy còn những lề chưa rọc.

Học cách người xưa, không để của cải cho con cháu mà để sách, nên giá như có phải vì thế mà tiêu hết cả cơ nghiệp, ông tôi cũng không tiếc. Chỉ có một điều khiến ông băn khoăn, ấy là trong đám con cháu thực sự chưa có một người nào đủ để ông tin tưởng. Gạt hết những đứa chỉ biết có nhà to xe đẹp, những đứa chỉ biết vung tiền trong các cuộc ăn chơi, suốt một đời chưa đụng tới một quyển sách nào, những đứa mà ông bảo là trong đầu toàn chứa những thứ vớ vẩn nếu không muốn nói là hôi thối ấy, còn lại chỉ vài đứa có để mắt tới sách, nhưng với một thái độ hờ hững, một đôi khi thô bỉ xúc phạm đến sách.


Ông ghét nhứt ai đó đọc sách mà miệng cứ nhai nhồm nhoàm, vừa đọc vừa tán chuyện, bạ chỗ nào cũng đọc ngay cả trong nhà cầu, đang đọc mà có ai ới lên một tiếng là ném ngay cái xạch sau khi đã tàn nhẫn xếp lại một góc để làm dấu, rồi bỏ đi mà không cần biêt tới quyển sách có thể bị ướt, bị bẩn hay bị cháy. Ông cũng không chịu được cái cách lật sách thô bạo bằng cả bàn tay úp lên trang giấy hay thấm nước bọt trên đầu ngón tay. Đó là cách cư xử của kẻ phàm phu tục tử, của phường giá áo túi cơm. Lật sách mà như thế có khác gì sàm sỡ nếu không muốn nói là cưỡng bức. Phải lật như những nhà sư nâng nhẹ một trang kinh hay là như khẽ lay một người đẹp đang ngủ.

Đối với ông, đọc sách là để được tiếp cận với những tâm hồn ngoại hạng, cho nên trước hết phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, phải “dọn mình”như con chiên quỳ trước Chúa, như nhà sư đảnh lễ trước bàn thờ Phật. Chẳng những sạch ở phần xác mà còn sạch cả phần hồn. Nghĩa là không để những giận hờn phiền muộn hay những ý nghĩ ô trọc dính bám cho dù chỉ một tí trong đầu. Chỉ đọc trong lúc thanh tịnh giữa khuya hay khi gần sáng tinh mơ. Đọc với hương trầm cọng với mùi hương ngai ngái của giấy mực, hương của sương đêm loáng thoáng hay hương của nước mưa mát dịu. Đọc là mở hồn ra để hơi thở của sách ùa vào căng buồm lên cho con thuyền bé nhỏ của mình được dọc ngang trên biển học mông mênh.

Đương nhiên là ông tôi khó tính nhất nhà. Cái viện sách bé nhỏ của ông là một nơi khả kính, thâm nghiêm như một ngôi đền không một ai ngay cả bà tôi dám động tới. Bảy mươi năm sống trên đời của ông thì hết một nửa là ở trong cái gian phòng đựng đầy sách với mùi hương và sắc màu của những tâm hồn kỳ vĩ. Dạo ấy, mặc dù được cưng chiều và rất có triển vọng được ông tin tưởng, tôi cũng chưa được một lần đọc một quyển sách nào trong tủ sách ấy. Ông bảo tôi chưa đủ tuổi và chưa học được cách nâng niu gìn giữ theo cách gần như tôn thờ, thì đọc chẳng ích lợi gì mà còn “giết” sách. Theo ông, đọc vì tò mò, đọc như “lua cơm”, đọc như ngốn ngấu thì cả đầu óc mình chỉ là một bãi hoang chứa đầy những xác chết của sách bị vất ngổn ngang mà thôi. Đọc là phải ngấm từng chữ từng câu, phải để nó bén rễ trong đầu mới có thể thành cây cho trái ngọt.

Năm tháng qua đi, ông tôi âm thầm làm một cuộc chuyển giao lặng lẽ. Tiền bạc trong nhà cứ cạn dần nhưng sách của ông lại đầy lên, phải đóng thêm tủ kê thêm kệ. Cô chú tôi biết ý ông, nên mừng tuổi không bằng trà ngon rượu bổ, mà bằng những phong bì ít nhất cũng đủ cho ông mua được một hai quyển sách. Những lúc ấy ông vui như một đứa trẻ lên 5 được nhận tiền lì xì. Rồi ông đi ra tiệm sách, khệ nệ ôm về những chồng sách mà ông ao ước nhưng chưa đủ tiền mua. Ông ve vuốt từng cái bìa, ngắm nghía từng con chữ, đê mê những sách của Lá Bối, An Tiêm, mơ màng với những tác giả Saint Exsupéry, Bùi Giáng…Giá như ông sống đến một trăm tuổi và giá như ông còn có đủ tiền thì cái viện sách của ông sẽ kín đặc những sách. Ông sẽ ngồi giữa những bức tường dày cộm thơm tho đó như một anh lính già đang tử thủ trong một cái lô cốt văn hóa.

Sau tháng tư năm ấy, cái tháng tư mà dù nằm dưới mộ sâu ông vẫn còn đau đớn, những cuốn sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm đã bị bức tử một cách oan nghiệt.

Khi người ta đội lên đầu những quyển sách của ông, có những quyển già như một ông tiên đầu bạc, có những quyển xinh tươi như những thiếu nữ trẻ trung, những chiếc mũ có tên là “nọc độc”, là “đồi trụy”, là “phản động” thì hơn ai hết ông hiểu đó là một lời tuyên án tử hình.

Ông suy nghĩ lung lắm, không phải để tìm cách chôn dấu hay tẩu tán. Mà suy nghĩ làm sao để chọn cho sách một cái chết xứng đáng với lòng tin yêu và kính trọng của ông.
Một đêm thức trắng.
Rồi hai đêm thức trắng.

Ngày thường ông bình tĩnh là thế nhưng lúc này, ông bối rối run rẩy. Có lúc mặt ông đỏ bừng và mắt ông lóe lên những tia lửa căm hờn. Cả nhà chẳng ai dám hỏi nói gì với ông. Giống như một con sư tử già bị săn đuổi cùng đường, lâu lâu ông lại gầm lên một cách tuyệt vọng.

Cuối cùng ông đã chọn cho mấy trăm cuốn sách một cái chết dũng cảm. Đó là chính ông tự mình đốt sách.

Một quyết định cháy lòng.
Tôi cũng được dự phần trong cuộc hỏa thiêu đau đớn ấy, bằng cách giúp ông bê hết sách ra sân. Dù đem đi đốt nhưng ông không cho phép tôi làm rơi rớt xuống đất, không được nặng tay, mà phải sẽ lén nhẹ êm như đang bồng một em bé say ngủ. Phải rồi, những cuốn sách của ông đang say ngủ. Đánh thức chúng dậy, ông sẽ không chịu nổi những tiếng khóc mà chỉ riêng ông mới nghe được mà thôi.

Sách được xây thành một cái tháp quanh những thanh củi chẻ nhỏ. Ông không muốn đốt chúng bằng xăng hay dầu. Ông lại càng không muốn xé sách ra từng mảnh nhỏ để đốt. Xé ra là làm chúng đau. Và làm cho chúng đau trước khi chết là tội ác. Một người coi sách là sinh vật sống, để cả đời nâng niu bồng ẳm, vậy mà phải giết do chính bàn tay của mình, bạn phải biết là ông tôi đã đau khổ đến nhường nào.

Đó là một đêm tháng năm lặng gió. Cây cối im ngủ. Những ngôi sao như tan đi trong khói trời mờ đục. Ông tôi cử hành lễ đốt sách cũng bi tráng và lẫm liệt như Huấn Cao cho chữ trong ngục. Ông mặc toàn đồ trắng, cắm một cây đuốc giữa trời, khấn khứa rì rầm rồi lạy bốn hướng mỗi nơi một lạy. Xong ông lấy cây đuốc đang cháy đặt vào giữa tháp. Dứt khoát và quyết liệt như cái cách các võ sĩ đạo đâm kiếm vào bụng.
Lửa bắt rất nhanh, chỉ trong phút chốc đã bắn vọt lên đầu ngọn tháp.
Đã nghe mùi mực và mùi giấy.
Đã nghe tiếng vặn mình của các bìa sách.
Đã nghe những âm thanh líu ríu như run như rẩy của những trang sách méo mó cong vênh.
Lửa trào ra như từ miệng hỏa diệm sơn.
Lửa ôm choàng lấy sách, hôn dữ dội bằng đôi môi bỏng cháy.
Sau cùng, cái tháp bằng sách đỏ rực như một trái tim để lộn ngược.
Ông tôi ngồi xếp bằng, cố giữ nét mặt trầm tĩnh một cách cao cả. Không một giọt nước mắt cho dù là vì khói cay xè. Ông như thượng tọa Thích Quảng Đức đang ngồi kiết già với ngọn lửa bao quanh. Có thể nói, chính ông cũng đang tự thiêu. Bất giác tôi cảm thấy muốn khóc vì lo sợ. Đến một lúc nào đó, biết đâu ông đứng bật dậy bước thẳng vào ngọn lửa.
Ông chết theo sách.

Đó là một cái chết đẹp, xứng đáng với một người yêu sách như ông.

Nhưng ông chưa muốn chết vì ông còn phải để tang cho sách như một đứa con chí hiếu. Ngay lúc lửa tàn, ông quỳ xuống lạy ba lạy. Rồi ông kiên nhẫn ngồi đợi cho tất cả biến thành tro nguội. Ông bảo tôi hốt tro vào bao, cất vào tủ rồi mới chịu đi vào nhà. Gần như suốt đêm ông không ngủ. Bà tôi than thở là nghe tiếng dép của ông kéo lê lệt sệt mãi tới tận sáng.

Hôm sau, ông bảo tôi thuê thợ đóng nhiều chiếc hộp để đựng tro. Mỗi chiếc để một ngăn tủ. Ông khóa lại và dặn không được dùng vào việc gì khác ngoài việc gìn giữ những chiếc quách ấy. Hơn 30 năm sau, cái tủ đựng đầy những hộp tro vẫn đứng im đó như một nhà mồ. Ngày giỗ ông, chúng tôi cũng đem một bát nhang đến thắp trên đầu tủ. Có cảm giác như hồn ông và hồn sách cùng lảng đảng bay về.

Vẫn chưa hết chuyện về ông tôi đâu. Một tháng trước ngày mất ông muốn tôi làm cho ông những tấm mộ bia bằng giấy. Ông đưa tôi một danh sách dài những quyển sách bị đốt, cứ mỗi tấm bia đề tên một quyển sách. Hơn mấy trăm cái bia như thế, phải mất cả tuần mới làm xong. Những mộ bia không có ngày sinh nhưng có chung một ngày tử. Chúng được xếp lên kệ thay cho hàng trăm cuốn sách đã chết tập thể.

Cả viện sách của ông giờ đây biến thành một nghĩa trang.
Ông trịnh trọng chít khăn trắng, lên nhang đèn rồi cung kính khấn vái như trước bàn thờ tổ tiên. Trong những lời rì rầm, nhiều lúc bỗng vang lên như tiếng khóc, ta là người có tội, có tội. Theo như tôi hiểu đó là cái tội không bảo vệ được sách, tội với các tác giả, tội với những thợ sắp chữ ở nhà in và xa hơn nữa là có tội với giấy và mực.

Ông biết ơn họ bao nhiêu thì bây giờ ông ray rứt vì mình có tội bấy nhiêu.
Từ đó ông ăn ít ngủ ít. Ông đem từng tấm bia đặt lên bàn, lặng lẽ ngồi ngắm hằng giờ như đang đọc sách. Mỗi tấm bia gợi nhớ đến màu bìa, co chữ, tranh vẽ và cả nội dung mà chỉ có ông mới thấy được, hiểu được. Ông như sống lại những năm dài trước đó với những niềm vui kín đáo khi tìm được sách quý, hay mua được những sách hay. Những lần như thế, ông tự thưởng cho mình khi thì một bình trà, lúc một chung rượu hay tách cà phê và những điếu thuốc thơm thay cho hương trầm.

Rồi đến một lúc ông không ăn mà cũng chẳng ngủ. Người ông khô kiệt tái xám. Ba tôi và các chú đi cải tạo chưa về đương nhiên là khoét sâu vào hồn ông những nỗi buồn lo khôn nguôi. Nhưng dù vậy, tận cùng của đêm thì cũng phải sáng. Ông có thể đợi đến mười năm hay hai mươi năm. Chỉ có những quyển sách bị đốt là không đợi được. Ông nói với bà, biết trước như vầy tôi đã để hết tiền cho bà chứ mua sách làm chi. Bà tôi cay đắng, ai mà có con mắt sau lưng.

Buổi chiều cuối cùng ngồi bóp chân cho ông, tôi nghe ông hỏi, cháu thấy ông thế nào? Tôi nói, dạ, ông nên ăn chút cháo, trông ông gầy lắm. Không phải, ông nói, da ông thế nào, đã ngã thành màu đất chưa? Không biết da màu đất là màu gì, tôi nói đại, chưa ông à. Ngã màu đất là sắp chết đấy cháu, ông nói. Ông đã có ý để lại sách cho cháu, nhưng ta tính làm sao được bằng trời tính. Cháu nhớ giữ giùm ông cái tủ và mấy cái kệ.

Nghe ông nói, tôi thấy da ông quả thật rất giống với màu đất bạc phếch, lạnh lẽo ở nghĩa địa. Da ông là da của một người đã chết từ lâu nhưng chưa chôn. Hay là ông đã chết từ cái đêm hôm ấy. Hồn ông đã cùng với hồn sách nương theo khói bay lên tận trời cao. Cái miền đất ồn ào đầy ô trọc và thù hận này biết đến bao giờ mới lại có được những con người, những quyển sách biết yêu quý tương kính lẫn nhau như thế. Chính lúc này tôi mới thấy thấm thía nỗi đau mất sách của ông.

Tôi vừa buông tay ra thì ông ngừng thở. Ông chết nhẹ nhàng như gấp lại một cuốn sách. Tính ra, ông đã để tang cho sách đúng một trăm ngày./.

17/10/2010
- See more at: http://elib.quancoconline.com/ui/viewcontent.aspx?g=44534#sthash.gE1t5Cj9.dpuf

Wednesday, September 18, 2013


THÁNG CHÍN TÔI YÊU
 NGUYỄN THỊ THANH DƯƠNG

 
Tôi yêu tháng chín vì có mùa Thu,
Buổi sáng dậy sớm trời buồn sương mù,
Những ngọn đèn đường vẫn còn thao thức,
Lòng tôi cũng thức đợi gió sang mùa.

Cơn mưa đầu mùa về qua thành phố,
Làm ướt vai tôi dù cơn mưa nhỏ,
Tháng Chín còn thơm mùi hoa Ngọc Lan,
Trong vườn nhà ai Ngọc Lan vẫn nở.

Tôi yêu tháng chín trời không lạnh đầy,
Gió từ phương nào cũng gió heo may,
Đủ cho người ta bâng khuâng thương nhớ,
Trăng Thu đầu mùa một ánh trăng gầy.

Tôi sẽ đợi chờ một ánh trăng rằm,
Để mơ theo chuyện chú Cuội chị Hằng,
Ánh trăng đẹp của tôi thời thơ ấu,
Ánh trăng đâu rồi? Trung Thu vẫn còn.

Tôi yêu tháng Chín có nắng hanh hao,
Đủ cho người ta thương nhớ ngọt ngào,
Gió heo may nhớ, nắng vàng cũng nhớ,
Nắng gió mùa Thu tình đến thế sao?

Trời vẫn còn xanh mây trắng tinh khôi,
Tôi yêu tháng chín, tháng của riêng tôi,
Trời đất ngỡ ngàng đón mùa Thu đến,
Và đón tôi cất tiếng khóc chào đời.

Tháng Chín trở về bao chuyện vui buồn,
Bao nhiêu tai họa, chiến tranh điêu tàn,
Tôi yêu tháng chín có mùa Thu đẹp,
Mong điều tốt đẹp cho khắp thế gian


Nguyễn Thị Thanh Dương
(Tháng chín, 2013)

.

Tuesday, September 17, 2013


NGÀY KHÔNG VỘI VÃ

HOÀNG THANH




 

Mỗi năm một lần, tôi về thăm Mẹ và các em hiện đang sống ở Montréal, Canada. Năm nay cũng như thuờng lệ, tôi về thăm nhà 2 tuần cuối tháng 6. Nói sao cho hết niềm vui gặp lại gia đình. Montréal vào mùa hè thật nóng bức, có ngày lên đến hơn 100 độ F, nên cả nhà thường rủ nhau đi ra ngoài chơi cho mát mẻ.
Tôi còn nhớ sáng hôm đó, cả nhà định dẫn mấy đứa cháu ra công viên cho tụi nhỏ hưởng chút khí trời. Tôi thì đã thay quần áo từ lâu, cứ chờ mãi mà mọi người cứ "xàng qua xàng lại", gần 9 giờ vẫn chưa xong, nhất là mấy đứa nhóc thì cứ lăng xăng chơi game, không ai chịu thay quần áo.
Thế là tôi bắt đầu nổi quạu "Nhà mình sao làm gì cũng như rùa bò vậy ? Có đi hay không thì bảo..?
Cô em tôi nhỏ nhẹ "Thì từ từ, vacation mà lị , chị sống ở Mỹ riết rồi quen thói "stress out" hà ...".
Cậu em trai thì nói "Chị làm gì mà dữ vậy, chị có biết hôm nay là "ngày không vội vã " hôn ?
Tôi ngạc nhiên, tưởng tai mình nghe lầm, nên hỏi lại "Ngày gì? Không vội vã là sao ? " .
Thế là Má tôi bật tivi lên. Trên màn ảnh, đài nào cũng đang nói về cái ngày đặc biệt này. Ồ, thì ra là từ vài năm nay, mỗi năm chính phủ Canada chọn ra một ngày, thường là vào mùa hè, một ngày cuối tuần, và năm nay rơi vào ngày 26 tháng 6, gọi là "một ngày không vội vã ".

 

Khoảng chừng vài tuần trước đó, là báo chí, các cơ quan truyền thông đều loan báo và nhắc nhở để mọi người chuẩn bị. "Ngày không vội vã " bắt đầu từ 8 giờ sáng cho đến 9 giờ tối. Mọi người được khuyên là "Bạn hãy ngủ cho thẳng giấc, thức dậy khi nào mình muốn. Hãy nhâm nhi tách cà phê, và ngồi ngắm khu vườn của bạn, nghe tiếng chim hót líu lo. Hãy đi ra ngoài nếu bạn thích, vào ăn trưa ở một restaurant nào mà bỗng dưng bạn muốn. Còn nếu không, bạn có thể mời bè bạn đến nhà làm BBQ. Bạn cũng có thể chạy xe đạp một vòng thành phố, hay nằm dài trên bãi cỏ của một công viên gần nhà, vân vân và ... vân vân ".

Tóm lại, chính phủ khuyến khích người dân: “Hãy enjoy từng phút giây hạnh phúc, bình an của … một ngày không vội vã. Hãy biết sống và tận hưởng hạnh phúc ở quanh ta”, như lời của một người phóng viên trên đài tivi đang nói.
Rồi còn có các màn phỏng vấn vài người dân, hỏi xem họ dự định sẽ làm gì trong cái ngày đặc biệt này trong năm, thì đa số câu trả lời đều là "spend time với gia đình, người thân ".
Có một cảnh trên màn hình làm tôi nhớ mãi. Hình ảnh một cụ già tóc bạc phơ, lụm cụm trả lời phỏng vấn với nụ cười móm mém "Tôi luôn mong đợi và yêu nhất cái ngày này trong năm, vì đó là ngày duy nhất mà tất cả con cháu tôi không ... bận rộn, chúng nó tề tựu đông đủ để họp mặt với tôi. Cám ơn chính phủ, cám ơn ân nhân nào đã "đặt ra" cái ngày ý nghĩa này ...".
Thế là bỗng dưng tôi đổi ý. Tôi bảo gia đình "Hôm nay là ngày đặc biệt, vậy thôi mình làm chương trình gì special đi nhe ..."  
Thế là cả nhà nhao nhao hưởng ứng, người thì bảo "khỏi nấu cơm, đi ăn tiệm cho khỏe", kẻ thì nói "nhà hàng đông lắm, đi xuống downtown chơi".
Em trai tôi thì muốn đi xe đạp (ở Montréal có rất nhiều bãi cho mướn xe đạp, bạn chỉ cần "quẹt" cái credit card vô là có thể lấy xe đạp đi ngay).
Mấy cháu nhỏ lại muốn đi tàu BateauMouche.  Rồi lại có ý kiến đi câu cá, hay đi xe ngựa một vòng thành phố. Và thế là giơ tay biểu quyết. Cuối cùng thì đa số thắng thiểu số: đi xuống Vieux-port (khu phố cổ) chơi và sẽ đi tàu BateauMouche. Thế là chúng tôi lên đường, thảnh thơi, không vội vã ...
Đường xuống phố đông nghẹt, và kẹt xe, thế mà không một xe nào bóp kèn. Thiên hạ ngồi trong xe, an nhiên chờ đợi, còn mở cửa kiếng xuống nhìn nhau cười, và vẫy tay: “No hurry! Be happy!”. Tôi thật sự “thấm” được thế nào là ý nghĩa của 3 chữ “không vội vã!”

 Đến chừng xếp hàng mua vé đi tàu, thì lại là một hàng thật dài, trong cái nắng gắt của mùa hè. Vậy mà ai ai cũng cười, cũng nói, cũng bắt tay, với cả những người ... không quen biết. Dường như con người ở đây, ngày hôm nay, không ai bị stress cả. Cả một thế giới hoà bình, thanh thản quanh tôi ...
Lúc bước xuống tàu, David, thằng cháu nhỏ 5 tuổi hối hả muốn chạy đến dành chỗ, thì bị Christina - cô cháu 4 tuổi , "chỉnh" ngay : "David! Bữa nay là "No hurry day" mà, sao David cứ hurry hoài vậy?", làm cả nhà cùng cười. Tôi cũng bật cười theo vì sự nhận thức dễ thương của cô bé này.
Trưa đến, đói bụng, chúng tôi ghé vô một nhà hàng Tàu. Lại đông nghẹt khách, nhưng ai ai cũng vui vẻ xếp hàng đợi đến lượt mình. Đang đứng chờ thì người bên cạnh tôi, một phụ nữ Quebécois bắt chuyện hỏi tôi đã làm gì ngày hôm nay. Tôi kể lại một ngày vui chơi với gia đình cùng các cháu. Bà cười, chỉ hai người con: "Chồng tôi mất lâu rồi, năm nào vào ngày này, tôi cũng để tụi nó quyết định muốn đi đâu, làm gì... Cuộc sống mà, có gì mà phải vội vã..." Rồi bà tiếp "Như trưa nay nè, bỗng dưng con gái tôi thèm ăn món lẩu Tàu, thế là chúng tôi vô đây, xếp hàng, nghe nói nhà hàng này món nào cũng ngon lắm ...". Tôi gật đầu đồng ý và cảm thấy vui vui trong lòng...
Ăn no xong, thì đến chiều. Không ai muốn về nhà, thế là kéo nhau ra park chơi. Nhìn quanh, thiên hạ đông như kiến, tự dưng tôi thấy lòng mình vui chi lạ. Trải tấm chiếu trên bãi cỏ, tôi nằm xoải người, vươn vai một cái thật đã. Dường như hơn 10 năm sống trên đất Mỹ, tôi chưa hề có được cái "đã" nào như thế này . Cứ để mặc tụi nhỏ tha hồ chơi xích đu, cầu tuột, chạy chơi, la hét... tôi nằm đeo cặp mắt kính mát, tận hưởng từng làn gió thoảng qua một cách khoái chí, do... nothing , lim dim ... ngẫm nghĩ sự đời. Kể cũng lạ, nhờ có cái ngày này, mà tôi mới nhận ra là hình như trong đời, tôi chưa hề bao giờ có được một ngày không ...vội vã ...

... Sinh ra và lớn lên ở Saigòn, trong một gia đình nghèo, nên tôi biết rất rõ là chỉ có ráng học thì mới có thể giúp tôi thoát khỏi cái kiếp nghèo muôn thuở đó. Ngay từ nhỏ tôi đã rất hiếu học. Từ lớp tiểu học, đến phổ thông, rồi đại học, cả đời tôi chỉ biết có sách vở, và suốt ngày chỉ cắm đầu cắm cổ mà học. Tuổi thơ tôi chưa hề có một ngày không vội vã. Hôm nào cô giáo bệnh, được nghỉ và về sớm, trong khi các bạn bè cùng trang lứa lăng xăng tìm chỗ đi chơi, hay la cà các hàng quán , thì tôi lại vui mừng vì … có thêm giờ để học bài. Tôi hối hả đạp xe về nhà, rửa mặt vội vàng và ngồi vào ngay bàn học. Bài thi nào cũng vậy, được 9 điểm là tôi buồn, vì phải điểm 10 cơ thì tôi mới chịu. Mọi người luôn bảo là tôi thích sự tuyệt đối, và như vậy thì đời tôi sẽ khổ... Vào đại học, 5 năm, tôi lại chưa hề có được một ngày không vội vã. Lúc nào tôi cũng bận rộn, với bài vở và với những cuộc thi. Tôi luôn tham lam, mong muốn mình phải đạt điểm 10 trong mọi bài thi. Tôi sẵn sàng thức khuya, dậy sớm, miễn sao đạt được điểm tối đa là tôi vui. Có lần nhỏ bạn thân bảo tôi một câu chí lý "Học mà không chơi giết mòn tuổi trẻ, Chơi mà không học giết cả tuơng lai …". Tôi nói ngay “thì bởi vậy, tao học nè, chỉ có cái học mới giúp mình thoát ra khỏi nghèo khó", nhỏ bạn cười "Tao thì chọn... cả hai, vừa học vừa chơi, miễn sao không thi lại là "đủ xài" rồi, rồi mai này mày sẽ hối tiếc khi tuổi trẻ trôi qua uổng phí ...". Tôi chỉ cười, nhưng bây giờ mới nhận ra là nó có lý... Ra trường ở Canada, đi làm, tôi lại lao vào công việc, làm thật nhiều, để mong kiếm thật nhiều tiền trong thời gian ngắn nhất. Tôi tình nguyện là 7 ngày 1 tuần, mỗi ngày 13 tiếng. Ròng rã 3 năm thì tôi đuối sức, nên đành giảm bớt chỉ làm 5 ngày. Mười năm trời, tôi dành dụm được một số tiền, và nỗi ao ước, làm giàu, thật nhanh , đẩy tôi vào thị trường chứng khoán. Tôi say mê chơi stock, nên ngày nào tôi cũng luôn bận rộn với Wallstreet, với giá cả và những con số lên xuống của từng công ty. Trúng stock, chỉ qua một đêm, tôi bỗng nhiên thành triệu phú. Ấy thế mà tôi vẫn chưa có được một ngày không bận rộn. Ngay hôm đó, đầu tôi lại tính toán cách đầu tư nào để nhân đôi, nhân ba số tiền tôi đang có. Thế là lại mạo hiểm, lại chơi những ván bài to hơn. Ông bà ta đã có câu "Có gan làm giàu kia mà ".Tôi đã có gan, và tôi đã giàu, thì bây giờ nếu muốn giàu hơn, tôi cần phải có gan hơn ...

Thị trường chúng khoán sụp đổ, tôi trở tay không kịp, thế là mất trắng . Tôi không nản "không sao, còn sức khoẻ, còn quyết tâm, ta có thể làm lại từ đầu, thì sẽ có tất cả". "Có chí thì nên", nên tôi quyết định qua Mỹ, vì Hoa kỳ là đất nước của cơ hội. Tôi lại lao vào công việc, cần cù, ký cóp... để dành tiền.

Vào những năm sau 2000, ngành dược và computer đang lên cơn sốt thiếu người. Thế là thiên hạ ùn ùn đổ sang Mỹ, vì làm việc nhiều tiền hơn. Tôi lại đi làm full time, 5 ngày một tuần, và luôn sẵn sàng làm overtime bất cứ khi nào công ty cần. Tôi đi làm từ sáng đến tối, ăn thì " cơm chỉ ", food to go, không xài gì cả, cắc ca cắt củm để dành từng đồng xu, hy vọng sẽ có cơ hội đổi đời ... Và rồi thì cơ hội đến thật, khi cơn sốt bất động sản bùng nổ. Giá nhà cửa tăng vùn vụt, từng ngày. Hễ ai chậm tay là... sorry, ráng mà chịu khó ngồi nhìn "căn nhà mơ ước" vuột khỏi tầm tay, bạn nhé. Và tôi lại bị cuốn xoáy vào cơn lốc này, như hàng triệu người ở xứ Mỹ.
Mỗi tuần chỉ có được hai ngày nghỉ làm, tôi rời nhà từ 8 giờ sáng đến 9 giờ tối , lái xe khắp mọi ngõ ngách, để tìm xem có căn nhà nào "For sale by owner" không, hay có căn nào trông lụp xụp mà mình có thể tân trang chút đỉnh lại rồi "flip", kiếm vài chục ngàn bỏ túi. Có những bữa tôi không có cả thời giờ để ăn cơm, mua vội vàng chút food to go bỏ bụng. "Thảy" 1 căn nhà, wow , ngon ăn quá, tôi làm căn thứ nhì, rồi thứ ba. Lòng tham con người là không đáy kia mà. Thì đùng một cái, cái "bong bóng" nhà đất nổ tung . Bao nhiêu kẻ mất nhà, tay trắng, và có tôi trong số đó. Từ một triệu phú (lần thứ hai ), tôi trở thành người mang nợ ngập đầu. Và thế là tôi phải đi làm bù đầu bù cổ để ráng cầm cự mấy căn nhà. Đến chừng thật sự đuối, thì tôi đành phải buông - trong cay đắng, vì không còn sự lựa chọn nào khác. Tôi shortsale mấy căn nhà, trước khi để nhà bank kéo. Rồi giờ thì tôi phải tiếp tục đi cày, cả đời, để mà trả nợ. Một bài học... suốt đời không thể nào quên. Cho đáng kiếp mày, một kẻ tham lam...

Hôm nay nằm dài trên bải cõ, hít thở bầu không khí trong lành của một ngày nắng ấm, chẳng có việc gì phải làm, thế mà tôi thấy lòng mình, tâm mình sao mà thảnh thơi chi lạ. Giờ phút này, tôi không giàu, nhưng sao tôi lại có được sự bình an, điều mà đã hai lần là triệu phú, tôi hoàn toàn chưa bao giờ có được.

Thật sự tôi phải cám ơn chính phủ Canada, hay cám ơn người ân nhân "trí tuệ" nào đó, đã nghĩ ra cái ngày đặc biệt này trong năm, để giúp người dân biết trân quý sự thanh thản mà cuộc sống ban cho chúng ta... Bỗng dưng tôi chợt nhớ mới cách đây vài tuần, tôi tình cờ gặp lại cô bạn cũ hồi trung học, khi vô tiệm food to go ở Cali mua đồ ăn. Hai đứa chỉ kịp chào hỏi vài câu, thì cô bạn vội vã về đón con, còn tôi thì lật đật đi ra xe sợ trễ giờ làm. Cô bạn than  Sao cuộc sống tụi mình lúc nào cũng tất bật quá há, chỉ khi nào hết thở thì mới hết... bận rộn...". Tôi chỉ cười "Xứ Mỹ mà lị...". Cô bạn tự dưng hỏi xin địa chỉ email của tôi, rồi bảo rằng "sẽ email gửi cho bồ một bài ý nghĩa lắm", rồi cô cười nói thêm "nhưng đọc thì hay, mà làm có được hay không lại là chuyện khác..." Tối đó check mail, tôi nhận được ngay, với vài dòng nhắn nhủ "Bồ ráng cố gắng thực hành theo lời khuyên trong bài này nhé, còn mình thì... đời vẫn lăng xăng ..." Tôi bật cười , và click vô đọc bài viết ngắn của cô bạn:

BẬN RỘN làm cho ta không có bình an và hạnh phúc BẬN RỘN làm cho sự hành xả của ta vụng dại BẬN RỘN làm cho cái hiểu biết của ta khô cằn BẬN RỘN làn cho sựsống của ta ngắn lại BẬN RỘN khiến ta không thấy được cái đẹp của người ta thương yêu BẬN RỘN khiến ta đi trên đường như ma rượt... Đời sống bận rộn là đời sống... bất hạnh nhất trên đời...!

Thế đấy, nhưng con người ai ai cũng luôn tìm đủ mọi lý do để mà... BẬN RỘN.
Và rồi một ngày kia, thử hỏi có ai mang theo được cái "BẬN RỘN" về bên kia thế giới?
Hãy biết dừng lại
Hãy biết ngơi nghỉ
Hãy tập thanh thản
và buông xả, thảnh thơi ...
thì khi cái ngày ấy đến, chúng ta mới có thể ra đi với cái tâm... KHÔNG... BẬN RỘN...!!!
Đúng vậy, dường như chúng ta , ai ai cũng luôn tự tìm cho mình một "lý do" để mà bận rộ , mà chưa hề bao giờ biết cách "nếm" được hương vị cuộc sống của mỗi ngày. Tôi chợt nhớ đến cô Kim Anh, cô cũng đã bảo tôi câu này khi bác sĩ cho biết là cô chỉ còn vài tháng để sống, và cô đã nói với tôi "Mỗi người đều có số phần, cô cũng mừng là cô còn "vài tháng", thì ít nhất cô cũng sẽ có được vài tháng sống trong bình an, không vội vã…"
Chiều xuống, trời bắt đầu ngã tối. Thiên hạ lần lượt rời công viên. Cả nhà tôi cũng lục đục thu xếp đồ lại.

Bé Tina có vẻ nuối tiếc, bé hỏi bà chị tôi "Mommy, ngày mai có còn là "No hurry day" hôn? . Chị tôi cười "Hết rồi con, mỗi năm ở Canada có một ngày hà ..." Tina phụng phịu "Na muốn every day đều là "No hurry day" cơ... Chị tôi nói ngay "Dễ thôi con, nếu mỗi ngày mà con biết enjoy, thư thả, con đừng làm việc gì gấp gáp hết, thì mỗi ngày sẽ là "No hurry day" rồi… " Tôi đứng đó, nuốt từng lời bà chị nói, và cảm thấy "ganh tỵ" với đứa cháu của mình, vì chỉ mới 4 tuổi, mà cháu đã được học một bài học quý giá nhất trên đời, còn tôi, gần nửa đời người mới được học bài học đó... Lên xe, cậu em trai mở nhạc, vặn thật lớn bài hát mà tôi rất thích:

..."Nếu chỉ còn một ngày để sống Chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp Phải chăng tsống quá vội vàng Nên ra đi chưa được bình an..."

Đúng thật, cả một đời tôi luôn sống quá vội vàng, thì làm sao có thể ra đi bình an? Một lần nữa, xin cám ơn cái ngày đặc biệt này, đã giúp tôi có một cái nhìn mới, khác hơn về cuộc sống...
Tự dưng tôi nhớ đến hai cô bạn thân. Cô bạn đạo Chúa thì chủ nhật nào cũng đi nhà thờ, hễ rảnh là đọc cuốn Thánh kinh nhỏ lúc nào cũng kè kè trong bóp. Cô hay nói với tôi "Chúng ta nên làm theo lời dạy của Ngài, thì lúc ra đi, mình sẽ được lên Thiên đàng với Chúa ..."

Nhỏ bạn đạo Phật thì hễ rảnh là đến Chùa, niệm Phật, nó nói tôi "Ở lành, giữ ngũ giới, làm từ thiện, thì chắc chắn sẽ được về với Phật..." Còn giờ phút này, tôi hiểu ra một điều "Nếu như chúng ta biết tự làm cho mỗi ngày của mình thành "MỘT NGÀY KHÔNG VỘI VÃ", thì chúng ta sẽ có được 365 ngày một năm đang sống ở Thiên đàng, hay Niết bàn... rồi đó ... Chúc mỗi người trong cuộc đời, luôn có được những ngày ... không vội vã ...

Hoàng Thanh

(Nhật báo Viễn đông)