Saturday, July 28, 2012


BIỂN XƯA KHÔNG CÒN HÁT

th. đoàn thy vân

BIỂN KHÔNG CÒN HÁT. Những hàng liễu xanh cũng hết lao xao, chỉ còn gió, gió từ muôn phía, gió từ biển khơi thổi vào mang theo vị mặn. Gió từ những động cát thổi ra làm ran rát mặt và có kèm theo mùi rong cỏ của những bầu sen gợi nhớ tuổi thơ với những chiếc cần câu nhỏ, nhưng dường như giun dế đã quá giang theo dòng người vượt biên tìm đất sống. Tuyệt nhiên không có hương sen, hương súng thoảng đưa vì sen súng đã tàn úa theo tháng ngày đổi đời trăn trở dười bàn tay thô bạo của những người dân mới nhập cư.

          Vũng tàu bãi trước đón tôi về như đón một người khách lạ, những kiosque dể thương đã biến mất.  Ngước lên núi nhỏ tôi có cảm giác như ngọn hải đăng nghiêng xuống nhìn tôi mà thầm hỏi: “Về làm gì khi Vũng Tàu thân quen đã không còn nữa, và hải đăng đã quá già nua không còn sức để soi đời trên biển đêm Ô Cấp?

           Tôi không còn biết gì về Vũng tàu nữa dù đã đi một vòng xe ôm qua những nơi chốn ngày xưa quen biết, qua cả ngôi trường ngày xưa tôi theo học. Tất cả đã biến dạng, những con đường thân quen những địa danh ấm áp đã chia ngang xẻ dọc vô lý như bàn cờ nát, như lưới nhện nhà hoang.

           Với tôi Vũng Tàu biển không còn hát vì dân mới nhập cư làm sao hiểu được tiếng sóng vỗ vào ghềnh đá nói gì, tiếng liễu ru dưới ánh trăng non tâm sự, tiếng thì thầm của những đợt sóng lăn tăn như mời gọi dân chài những chiều nước rút. Cảnh quan đã hoàn toàn thay đổi, những ngôi nhà cao tầng chen vai sát cánh mọc lên như nấm với nhiều màu sắc và nhiều khuynh hướng kiến trúc tùy tiện thoạt trông như bức tranh vẽ vụng của những người cầm cọ bất tài. Vũng Tàu như cô gái giang hồ già nua đang cố bôi son trét phấn để che đi nhan sắc tàn phai của chính mình.

            Biển không còn hát, nhất định như thế và tôi xuôi dòng ký ức tìm về một thời rong chơi ở Vũng Tàu nhỏ xíu như bàn tay, đầy nắng gió nhưng cũng đầy ắp tình người, với cà phê kho Liên Tinh, cà phê filter thằng Cuội, Quán thằng Bờm. Quán kem Anh Đào nơi có hai cô bé chỉ nhìn qua là đã mát cả người. Quán ăn Thanh Cảnh với những bàn bi da đầy quyến rủ một thời tuổi trẻ, tôi nhớ đến Kim Chi cô con gái người chủ quán đang ở thời 16 trăng tròn dường như phổng phao hơn số tuổi, đã làm ngây ngất bao nhiêu trái tim trai trẻ dĩ nhiên trong ấy có cả tôi. Nhớ tiệm chụp hình Kim Phượng đã cho tôi những tấm hình đầu tiên để gởi vào lưu bút, Tiệm trồng răng Ông Năm chửa cho tôi mấy cái răng sâu. Nhà may Thăng Long có cô em màu da bánh mật đã làm tôi mất ngủ nhiều đêm. Tiệm thịt bò Đồng Thanh có hai anh chàng quỷ sứ bạn tôi. Mắm ruốc Bà Giáo Thảo cũng có cô em ngày xưa hoàng thị trong trí nhớ tôi. Bánh cuốn Hy Thái, quán cơm Hải Âu. Những rạp cine Võ Ngọc Chấn, Duy Tân, Kim Đô là những nơi có nhiều bóng tối từng che chở cho những nụ hôn thầm.… nhiều, còn nhiều lắm, đầy ắp trong ký ức tôi. Nhưng tất cả đã biến dạng hoặc không còn nữa. Tôi đã là khách lạ trên chính quê hương tôi. Tâm hồn tôi rụng xuống như trái bàng rơi khô khốc trên lề đường xi măng kẻ ca rô ngang dọc thuở nào.

          Những đường kẻ ca rô xẻ ngang ký ức và tôi nhớ đến Sa Giang, người con gái bắc kỳ kiêu sa theo gia đình từ thành phố xuống nhập học trường tôi. Nàng trông lớn hơn tôi thấy rõ vì nàng học lớp trên và đã qua lâu cái tuổi dậy thì, nàng như trái cây vừa chín tới thoạt trông là đã muốn vịn cành. Và nói theo cách xếp hạng bình dân bây giờ thì nàng thuộc loại “ngực tấn công mông phòng thủ”. Có lẽ trong số những chàng trai mới lớn si tình nàng thì tôi là gã si tình nặng nhất nhưng nhát nhất. Đã bao lần trốn học để ra bãi trước ngồi dưới những gốc bàng vớ vẫn làm thơ tặng nàng. Trên bàn học khắc tên nàng chồng chéo, những câu thơ tỏ tình vụn vặt, có trái tim và tên bắn xuyên tâm. Sa Giang, chỉ cái tên thôi đã nghe như chập chùng sóng nước sông hồng, đã ngầy ngật tâm hồn đầy mơ mộng của tôi. Thơ chỉ đến tay nàng một lần duy nhất và không hề có hồi âm, kết quả là năm ấy tôi thi rớt, còn nàng đang là bạn rất thân với anh chàng Trần xóm lưới đang học cùng lớp với nàng.

         Không hiểu là biển gọi hay quê hương gọi, tôi và Trần trước sau đều lên đường nhập ngủ. Tôi vào lính mang theo hình ảnh nàng và một mũi tên xuyên tâm. Dĩ nhiên điều này nàng không hề hay biết.

         Riêng tôi lại biết đôi chút về nàng thông qua bà chị Hai học cùng lớp với nàng. Sa Giang là đối thủ của chị tôi, cứ cho là như thế vì trước khi Giang về nhập học thì chị tôi đã là bạn khá thân thiết của Trần (sau này là bạn của Giang) Trần học giỏi, cùng lớp nhưng vẫn thường phải giảng bài thêm cho chị tôi vì thế hai người thân quen còn yêu đương ai biết. Khi Giang về và thân quen với Trần thì Chị tôi đã là người ngoài cuộc. Tuy vậy chị vẫn lưu tâm đến Giang và Trần.

Sau khi Trần và tôi nhập ngũ thì Giang thi rớt phần 2 và lập gia đình với một anh chàng sĩ quan Truyền tin xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Vũng tàu. Chị tôi lòng vui như mở hội nhưng có biết đâu Trần lại đau nhức niềm riêng vì sau khi ra trường anh lại được chuyển về trường Truyền tin làm việc dưới trướng của chồng Giang.

Sau đó có lẽ vì không chịu được nghịch cảnh này nên Trần đã tình nguyện đổi về Bảo Lộc tìm quên theo sương trắng nghe thông reo mà ngỡ như biển hát. Trần đẩm mình trong chữ nghĩa và trở thành một nhà văn khá thành công vì những bài viết về tình yêu mượt mà làm nhức tim người đọc. Không lâu sau chồng Giang tử nạn giao thông ở cầu Cây Khế. Và Giang với đôi mắt lá răm lệ nhòa ngày tang chế cũng bốc hơi biến mất. Chị Hai tôi xuống tóc vào chùa Tịnh Độ thả hồn theo kinh kệ thu mình trong nhang khói thập phương.

Có lẽ biển đã không còn muốn hát ngay từ dạo ấy.

Chinh chiến điêu linh, chinh chiến tàn, vật dổi sao dời, tôi và những người cùng lứa cũng phải đổi đời. Giang đi đâu, Trần về đâu, ai biết chỉ còn sợi nhớ mong manh.

Những tưởng đã quên, nhưng sao vẫn nhớ, gót son nhẹ bước kiêu sa, đôi mắt lá răm hờn sông mà nổi sóng. Giang về đâu sóng nước về đâu.

Dòng sông đời vẫn chảy thời gian vẫn lặng lẽ trôi qua, hoa nở hoa tàn và tôi nhìn lại trong gương đã bạc nửa mái đầu bên trời phiêu bạt.

Vịnh San Francisco một chiều gió nổi, tôi ghé vào một tiệm rượu vắng khách không quen. Cô hầu bàn người Mexico vặm vở nở nụ cười thân thiện và hỏi ngay: “Anh đầu đen Châu Á? Giống chồng em! Nhưng chồng em đã chết sau lần đánh cá cuối cùng”. Tôi thảng thốt. Nàng quay người đi và mang ra chai rượu, xô đá và… mấy con khô mực nướng. Tôi lại ngớ người. Nàng cười cười nhìn tôi: “Không phải của em mà là của đồng hương anh đấy. Chờ nhé”.Quả thật trong một quán rượu Mể mà lại có khô mực đưa cay thường thì chỉ rượu trắng Tequila, máy lát chanh và muối… Tôi thầm nhủ người Việt mình hay thật bà Mể to thế kia mà cũng vơ vào.

         Sau ly rượu thứ hai, tôi lơ đảng nhìn qua cửa kính, vịnh Sanfran sóng gợn lăn tăn, xanh biên biếc, những cánh buồm vô định vẫn êm trôi. Còn tôi, tôi vẫn trôi đấy chứ, nhưng về đâu và sẽ đến đâu, tự dưng tôi nhớ Vũng Tàu và muốn nghe biển hát nhưng Ô Cấp đã là một chỗ nào xa. Một lần về là chia xa miên viễn. Nhưng Vũng Tàu ơi, vẫn nhớ lời biển hát, biển lẵng lơ vẫn nhưng nhức trong tim. Khói thuốc vờn bay tôi mềm người trong nỗi nhớ, nhớ gì lạ quá đi thôi.

Tự dưng nghe thoảng mùi hương, là sen hay súng là lý hay ngâu là chanh hay bưởi nhưng rõ ràng là đang có một mùi hương. Tôi quay người lại, trước mặt tôi là một thiếu phụ gương mặt còn đậm kiêu sa, chỉ có đôi mắt gợn buồn man mác như hồ thu có sóng chao nghiêng. Là Giang, nhất định là Giang vì làm sao tôi quên được đôi mắt lá răm kia đã theo tôi suốt cuộc đời này. Nàng không nhận ra tôi vì vết thời gian đã làm thay đổi dung mạo mỗi người, tôi lại để râu và mang kính. Nàng chìa tay thân thiện: “em là Saphire cứ gọi là Sa, vì anh là Việt Nam, sao em biết ư? Họ anh thêu trên túi áo kia kìa”.Tôi lại ngớ người.” Anh đừng ngạc nhiên, em ngồi được chứ ?” Và nàng thản nhiên ngồi xuống dù tôi chưa trả lời. “Em là… là chủ quán nhỏ này, cô chạy bàn hồi nảy là em dâu họ của em, chồng nó là dân đi biển và đã tử nạn”. Để tự kềm chế tôi rót ly thứ ba và khẻ khàng: “em dùng chút rượu chứ?”. Nàng cười… “Cám ơn, em có thứ của em…” Và rút trong túi áo blue của nàng một chai Martel bỏ túi đã cạn nữa phần…có lẽ không thể giữ thêm bình tỉnh vì thân hình toát ra hơi ấm cùa nàng cận sát bên tôi, tôi tháo kính và xoay người nhìn thẳng vào nàng khẻ gọi: “Giang, Sa Giang Trung học Vũng Tàu nhớ không?” Nàng giật mình và nhìn tôi chăm chú. “Anh là… là Hà hải đăng”.  Nàng ôm chầm lấy tôi xem như chung quanh chẳng có một ai, may mà quán vắng…  Rượu chưa cạn tiệc chưa tàn và chúng tôi dường như cùng trôi vào vùng ký ức nào xa…  

       Nhà Giang là một biệt thự nhỏ nằm trên đồi bắc nhìn xuống vịnh Sanfran, nửa đêm ngồi nhà như chìm giữa ngàn sao, gió từ vịnh thổi vào mát lạnh. Tôi không khỏi chạnh lòng vì cảm giác cô đơn và trống vắng như khói sương vẫn bàng bạc quanh đây…

        Lò sưởi nhỏ vẫn râm ran cháy, ấm nồng mùi gỗ oak. Nàng tựa vào tôi không chút ngại ngần. “Anh nhận ra em mà sao không nói? Khôn thật, thôi để em tâm sự cho anh biết ngọn ngành. Anh chàng làm thơ vớ vẫn kia ơi, em chẳng yêu Trần và cũng chưa hề yêu chồng một phút. Chỉ vì vâng lời bố mà em phải tuân theo. Bố em là Huấn luyện viên võ thuật trong trường Thiếu Sinh Quân và chồng em là học tró đắc ý nhất của Bố. Bố em chỉ muốn em lấy chồng người Bắc và cũng vì một lời hứa nào đó mà ông phải gã em. Chồng em lấy được xác em nhưng không giữ được hồn. Còn anh chàng Trần Xóm Lưới kia học tài nhưng lại là thi phận, học đúp hai năm mà cũng chẳng thành công, em không chê anh ấy, nhưng dường như anh ấy quá khô khan lại vội vã lên đường nhập ngũ như là đang chạy trốn định mệnh mình. Còn anh ư! Thú thật không có trong bộ nhớ vì anh là Nam kỳ lại kém tuổi em biết chưa? Cái thuở học trò ấy, biển thì lẳng lơ mà người thì đầy cao vọng. Em đã sai ngay từ đầu và cuối cùng như anh thấy cũng ba chìm bảy nổi mấy chục cái long đong. Trôi theo vận nước sang đây vớ một ông Tây lai Mể, làm chủ quán rượu bây giờ, ông ấy đã về Tây theo tiếng gọi của gái non và em thừa hưởng chút gia sản nhỏ nhoi này”. Bỗng dưng tôi nghe ươn ướt trên vai, thì ra nàng đang chạnh lòng mà rơi lệ.

        Tôi có cần nói cho nàng biết là con gái đầu lòng của tôi được đặt tên là Hà Giang, là tên ghép của tôi và nàng. Có cần nói là vợ tôi cũng đã trầm mình dưới thủy mộ quan ngay lần vượt biển đầu tiên, lúc ấy tôi còn trong trại tù lao khổ và Hà Giang thì cùng khổ với Bố mẹ tôi sau những ngày tháng tư hấp hối. Có cần nói cho nàng hiểu là tôi vẫn là gã lưu vong đơn chiếc vì nàng và vì chính con tôi. Có cần nói cho Nàng biết là Trần cùng chung cảnh ngộ như tôi. Có cần nói là tôi vẫn yêu nàng như chưa thể được yêu và có cần nói cho nàng là con tôi dù đã trưởng thành vẫn cần một người để gọi là Mẹ.

            Có cần- có cần… tôi lịm người đi trong vòng tay ấm áp của nàng, hương da thịt vẫn vô vàn quyến rủ, bầu vú căng áp chặt vào môi tôi, tôi ngã xuống hay nàng kéo tôi ngã xuống tấm thảm đời bên lò sưởi ấm nồng. Gió từ vịnh Sanfran lướt qua những ô cửa sổ như nghe như tiếng dương cầm phụ họa cho một đoản khúc quằn quại của của Chopin.

            Tôi và Giang như chút rượu Matel còn ấm và điếu thuốc chưa tàn nối đời nhau bên bờ vịnh Sanfran lộng gió, gió mơn man trên từng phân da thịt, không rát mặt chai da như Vũng Tàu nắng gió mà còn nghe biển hát tự tình xa.

            Chuyện tôi không có nàng Lara tóc vàng quyến rủ và Doctor Zhivago ngập thở một chiều đông, không có những nhân vật buồn bã của Boris Pasternak một thời loạn lạc. Hoàn toàn không có.

Chuyện tôi chỉ có những nỗi đau rất thật những mất mát không thể đền bù từ một cuộc đổi đời lịch sử mà mỗi một chúng ta là một chứng nhân hằng sống.

Cám ơn Trần đã thả xuống đời những lời mượt mà khó nói, cám ơn Giang đã cho con tôi có Mẹ lại đỡ dùm gánh nặng trên đôi vai còm cõi của tôi. Và cám ơn tôi gã làm thơ ngọng nghịu vẫn còn chút hạnh phúc cuối trời của đời lưu vong xa xứ.

Dường như gió vừa thổi vài hạt cát vào trong đôi mắt ngập tràn hạnh phúc của tôi.

Saturday, July 21, 2012


MADE IN VIETNAM
TIỂU TỬ






Lẽ ra bữa nay bác sĩ Lê không nhận bịnh nhân vì là ngày nghỉ trong tuần của ông. Nhưng hôm qua, trong điện thoại, nghe giọng cầu khẩn của người bịnh ông không nỡ từ chối. Người đó- ông đoán là một cô gái còn trẻ- nói chuyện với ông bằng tiếng Mỹ.
Cô ta hỏi ông nhiều lần :
- Có phải ông là bác sĩ Lee không?
Tên ông là Lê. Cái tên Việt Nam đó ở xứ Mỹ này người ta viết là "Lee", nên ông được gọi là "ông Lee" ( Li ).
Ông ôn tồn trả lời nhiều lần:
- Thưa cô, phải. Tôi là bác sĩ Lee đây.
- Phải bác sĩ Lee chuyên về châm cứu và bắt mạch hốt thuốc theo kiểu á đông không?
- Thưa cô phải.
- Có phải phòng mạch của bác sĩ ở đường Green Garden không?
Bác sĩ Lê, đã ngoài sáu mươi tuổi, tánh rất điềm đạm, vậy mà cũng bắt đầu nghe bực! Tuy nhiên, ông vẫn ôn tồn:
- Thưa cô phải. Xin cô cho biết cô cần gì?
Giọng cô gái như reo lên :
- Vậy là đúng rồi! Con Cathy bị bịnh suyễn nói bác sĩ chữa bịnh hay lắm. Cả nhà nó, kể luôn ba má ông bà nó đều đi bác sĩ hết.
Đến đây thì ông bác sĩ già đó không kềm được nữa, ông xẵng giọng:
- Cám ơn cô. Bây giờ xin dứt khoát cho tôi biết coi cô muốn cái gì?
Giọng bên kia đầu dây như lắng xuống:
- Tôi xin lỗi bác sĩ. Xin lỗi. Tôi muốn xin bác sĩ cái hẹn cho ngày mai. Tôi bịnh…
- Mai là ngày nghỉ trong tuần, phòng mạch không có mở cửa. Ngày khác vậy.
- Ngày mai cũng là ngày nghỉ của tôi nữa, bác sĩ à.
- Cô đã bịnh thì cứ xin nghỉ để đi bác sĩ, ngày nào lại không được!
Một chút im lặng ở đầu dây bên kia rồi giọng người con gái bỗng nghe thật buồn:
- Họ đâu có cho nghỉ, bác sĩ. Họ nạt vô mặt: "Mầy muốn nghỉ thì mầy nghỉ luôn đi. Thiếu gì đứa muốn vào làm chỗ của mày. Mày biết không?"
Giọng nói như nghẹn ngang ở đó, rồi tiếp:
- Không có việc làm là chết, bác sĩ à…
Ông bác sĩ già làm thinh, suy nghĩ. Đầu dây bên kia, cô gái van lơn:
- Xin bác sĩ thông cảm. Tôi sợ bịnh nặng hơn, không đi làm nổi nữa là mất việc. Xin bác sĩ thông cảm. Xin thông cảm.
- Ờ thôi, để tôi ráng giúp cô. Sáng mai, chín giờ. Phòng mạch của tôi ở số…
- Cám ơn bác sĩ. Cám ơn! Con Cathy có chỉ phòng mạch của bác sĩ rồi.
- Xin lỗi. Cô tên gì?
- Kim. K, I, M.

Bác sĩ Lê vừa ghi vào sổ hẹn vừa nghĩ:"Tội nghiệp! Chắc lại đi làm lậu nên mới bị người ta hâm he như vậy. Theo cách phát âm thì cô này có vẻ là người á đông. Tên Kim chắc là Đại Hàn. Để mình phải phone lại cô Cathy hỏi cho chắc ý kẻo gặp thứ lưu manh thừa dịp ngày nghỉ không có cô phụ tá, nó gài bẫy mình thì khổ!"
Đúng chín giờ, chuông cửa phòng mạch reo. Ông bác sĩ già bước ra mở cửa. Đứng trước mặt ông là một cô gái Á đông còn trẻ, ăn mặc theo kiểu "punk": quần áo có tua có tụi, tóc dựng đứng hỗn loạn như con gà xước, đeo nhiều vòng sên bằng bạc to như dây lòi tói, đầy cổ đầy hai cườm tay, mang cái xắc đỏ cũng có tua có tụi. Bác sĩ Lê, quá đỗi ngạc nhiên, chưa kịp hỏi gì, thì cô gái nói bằng tiếng Mỹ rất lưu loát:
- Chào bác sĩ. Tôi là Kim, bịnh nhân đã gọi điện thoại cho ông hôm qua. Tôi có làm cho bác sĩ chờ không?
Bác sĩ Lê chưa hết ngạc nhiên, trả lời một cách máy móc:"Không! Không!" Rồi ông bước tránh qua một bên: " Mời cô!"
Vào phòng mạch, ông đưa cho cô cái áo blouse trắng ngắn tay:
- Cô đến phía sau bình phong bỏ hết quần áo chỉ mặc quần lót thôi, rồi khoác ngược áo blouse này, lưng áo nằm về phía trước.
Trong lúc cô gái loay hoay làm theo lời dặn, ông bác sĩ già gọi phone về nhà, nói bằng tiếng Việt:
- Bịnh nhân của anh tới rồi, đang thay đồ. Chắc một giờ nữa là xong. Em đợi anh về rồi mình đi chợ.
Cô gái bỗng ló đầu ra khỏi bình phong mỉm cười nhìn ông, gương mặt thật rạng rỡ, định nói gì nhưng rồi không nói, thụt đầu vào tiếp tục cởi quần áo.
Một lúc sau cô ta bước ra, mắt ngời lên sung sướng, nói bằng tiếng Việt, giọng như reo lên:
- Bác sĩ là người Việt Nam mà con cứ tưởng là người Tàu! Tên "Lee" nghe Tàu trân!
 - Ủa! Vậy mà tôi cứ nghĩ cô là người Đại Hàn chớ!
Rồi cả hai cùng cười, cái cười rất sảng khoái. Tình đồng hương trên đất khách bỗng thấy thật ấm, thật đầy…Ông bác sĩ già nhìn cô bịnh nhân trẻ mặc áo blouse trắng đứng trước mặt ông mà không còn thấy cô gái "punk" hồi nãy nữa!
Ông đưa cho cô cái dĩa, rồi vừa chỉ cái giường cao vừa nói:
- Cô cởi hết đồ nữ trang để vào đây, rồi lên nằm trên này để tôi chẩn mạch.
Cô gái làm theo như cái máy.
Phòng mạch được trang trí rất đơn sơ, nhưng thật yên tịnh. Trong không khí có mùi thơm dìu dịu của moxa (ngải cứu, đốt lên để hơ huyệt). Cái giường khám bịnh cao ngang tầm tay của bác sĩ. Ở một đầu giường có gắn thêm một vòng bằng da để chịu cái đầu của bịnh nhân, và khi bịnh nhân nằm sấp để châm cứu trên lưng thì mặt người bịnh nằm trọn trong vòng da. Như vậy, người bịnh không cảm thấy khó chịu nhờ khoảng trống ở giữa vòng da giúp người bịnh vẫn thở đều đặn và mắt được nhìn thoải mái xuống sàn nhà.
Bác sĩ đặt hai bàn tay lên cánh tay trần của cô gái, ôn tồn hỏi:
- Cô bịnh làm sao? Nói tôi nghe.
- Con ngủ không được, đêm nào cũng trằn trọc tới khuya. Hay bị chóng mặt. Đang đứng làm việc, tự nhiên muốn sụm xuống làm sợ toát mồ hôi. Con lo quá, bác sĩ. Mất việc làm chắc con chết quá, bác sĩ!
Ông Lê bóp nhẹ cánh tay bịnh nhân:
- Cô yên tâm. Có tôi đây. Mà…cô có uống rượu không?
- Không. Dạ thưa không.
- Cô có hút thuốc không?
- Dạ thưa có. Hút cũng nhiều…
- Cô có xì ke ma túy gì không? Nói thiệt tôi nghe.
- Mấy thứ đó con không dám rớ. Hồi ở bên nhà thằng anh con chết vì ba cái thứ ôn dịch đó, bác sĩ à. Vì vậy, con sợ lắm!
- Cô le lưỡi tôi coi.
Bác sĩ khom xuống nhìn rồi nói:
- Ùm. Được rồi. Bây giờ cô nằm yên, để hai tay xuôi theo thân mình, nhắm mắt, thở đều đặn.
Ông bác sĩ già đứng cạnh giường đặt mấy đầu ngón tay lên cườm tay cô gái, chăm chú bắt mạch. Một lúc sau, ông bước vòng qua phía đối diện bắt mạch tay bên kia. Bộ mạch nói lên một sự rối loạn tâm thần. Cô gái này chất chứa quá nhiều ẩn ức nên sanh bịnh. Ông nhìn cô gái đang nhắm mắt thở đều: gương mặt Việt Nam đó, bỏ đi món tóc "punk", vẫn toát ra nét nhu mì dễ thương. Ông cảm thấy tội nghiệp cô bịnh nhân trẻ này và thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đã đưa đẩy cô ta trôi qua xứ Mỹ để có một cuộc sống mà ông đoán là thật bấp bênh, qua cuộc nói chuyện trong điện thoại. Ông nói:
- Bây giờ, cô nằm sấp xuống để tôi châm trên lưng.
Cô gái mở choàng mắt nhìn ông, mỉm cười, một nụ cười đầy tin tưởng. Ông bác sĩ nói tiếp:
- Cô đừng sợ. Châm không có đau. Còn nhẹ hơn kiến cắn nữa.
Cô gái trở mình nằm sấp, hai vạt áo blouse rớt xuống hai bên, bày ra cái lưng thon thon với nước da ngà ngà. Theo thói quen, trước khi châm, bác sĩ vuốt lưng bịnh nhân vài lần để bịnh nhân đỡ bị stress. Lần này, khi vuốt xuống thắt lưng, ông để ý thấy dưới làn vải mỏng của quần lót có một vết bầm nằm vắt ngang phía trên của mông. Ngạc nhiên, ông hỏi :
- Cô bị ai đánh hay sao mà bầm vậy?
Cô gái cười khúc khích:
- Bác sĩ coi đi!
Ông già kéo quần lót xuống một chút, thì ra không phải vết bầm mà là hàng chữ xâm màu chàm: Made In VietNam! Ông bật cười, vừa kéo lưng quần lót lên vừa nói:
- Cha…Bạo quá há!
Cô gái hơi rút cổ cười khúc khích vài tiếng nữa rồi im. Chắc cô đang sống lại với một vài kỷ niệm nào đó. Ông bác sĩ già áp hai lòng bàn tay lên lưng bịnh nhân, nhưng bây giờ sao ông không còn thấy cười được nữa. Hàng chữ "Made In VietNam" nhắc cho ông rằng con người nằm đây là sản phẩm của quê hương ông, cái quê hương đã mấy chục năm xa cách, cái quê hương mà ở đó ông không còn ai để nhớ, nhưng ông còn quá nhiều thứ để nhớ. Những thứ cũng mang dấu ấn "Made In VietNam", từ con trâu cái cày, từ mảnh ruộng vườn rau, từ hàng cau rặng dừa, từ con đường đất đỏ đến con rạch nhỏ uốn khúc quanh quanh…Chao ơi! Bỗng nhiên sao mà nhớ thắc thẻo đến muốn trào nước mắt…
Ông bác sĩ vuốt lưng cô bịnh nhân thật chậm để cho niềm xúc động lắng xuống tan đi. Ông có cảm tưởng như ông đang sờ lại được quê hương, có chỗ cao chỗ thấp, có phù sa đất mịn…Tự nhiên, ông muốn nói lên một tiếng "cám ơn". Ông muốn cám ơn cô bịnh nhân đã mang quê hương đến với ông bằng hàng chữ nhỏ xâm trên bờ mông, chỉ vỏn vẹn có một hàng chữ nhỏ. Và ông cũng muốn nói với cô, nói một cách thật tình, không văn chương bóng bẩy, nói như ông nói cho chính ông, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi: "Tôi cũng made in VietNam đây!" Nhưng rồi ông làm thinh tiếp tục vuốt lưng người bịnh. Ông biết rằng cô gái không thể nào hiểu được ông, một bác sĩ già vừa quá sáu mươi, đã gần nửa tuổi đời lưu vong trên xứ Mỹ, có đầy đủ tiền tài danh vọng mà cũng xâm hàng chữ "Made In VietNam", xâm ở trong lòng…
Bác sĩ im lặng dò huyệt châm kim. Bỗng cô bịnh nhân nói, giọng buồn buồn, làm như cô vừa xem lại hết một đoạn phim đời nào đó:
- Thằng bồ của con xâm cho con để làm kỷ niệm hồi tụi này còn ở Louisiana. Ảnh là thợ xâm…
- Ủa! Rồi sao bây giờ cô ở đây?
- Con theo ba má con dọn về Cali, ổng bả nói ở Cali bạn bè nhiều làm ăn dễ.
- Ờ…người Việt mình thích ở miền nam Cali lắm.
Ngừng một chút bác sĩ lại nói, trong lúc hai tay vẫn tiếp tục châm kim:
- Ở Cali khí hậu tốt hơn nhiều tiểu bang khác. Mà…ba má cô làm gì ?
Cô gái làm thinh một lúc mới trả lời, giọng ngang ngang :
- Qua đây rồi ổng bả đá đít nhau. Bả lấy thằng Mễ chủ pressing, còn ổng thì chó dắt ổng ôm được một bà Mỹ goá chồng có tài sản.
- Vậy rồi cô ở với ai?
- Với ba con. Bà Mỹ cho con đi học college, ba con lái xe đưa rước.
- Vậy mà sao hôm qua, trong phone, cô nói cô đi làm?
Giọng cô gái như nghẹn lại:
- Khổ lắm bác sĩ.
Cô ngừng một chút để nén xúc động rồi nói tiếp:
- Ba con ỷ có bà Mỹ nuôi, không chịu đi làm. Tối ngày cứ đi nhậu với bạn bè, rồi nay đổi xe, mai đổi xe…Con nói ổng, chẳng những ổng không nghe mà còn chửi con: "Tổ cha mày! Tao đem mày qua đây đặng mày dạy đời tao hả!"
Lại ngừng một chút mới nói được, nói như trút hết ẩn ức còn lại:
- Có lần ổng xáng cho con mấy bạt tay đau điếng…
Rồi nghẹn ngào :
- Lần đó, con bỏ nhà đi hoang…
Nói xong, hít một hơi thật sâu rồi thở hắt ra một cái như vừa làm xong một việc gì thật khó!
Ông bác sĩ im lặng, tiếp tục châm, mà nghe thương hại cô bịnh nhân vô cùng. Cô ta cỡ tuổi con gái út của ông. Con gái út của ông đang học đại học, còn cô này thì đang sống trong hoàn cảnh quá bấp bênh. Cả hai đều Made In VietNam hết!
Châm xong, ông đặt tay lên cánh tay trần của bịnh nhân, vuốt vuốt như vuốt tay một đứa con đang cần được vỗ về an ủi:
- Cô cứ nằm yên như vầy độ mười lăm phút, nghen.
Tiếng "dạ" bỗng nghe như đầy nước mắt.
Sau khi gỡ kim, ông bác sĩ bóp tay bóp chân bịnh nhân một lúc rồi nói:
- Bây giờ thì cô mặc quần áo vào được rồi.
Cô gái ngồi lên nói "cám ơn" mà đôi mắt vẫn còn mọng nước. Cô bước vào sau bình phong, chậm rãi mặc quần áo, làm như cô muốn những xúc cảm hồi nãy có thời gian để thấm sâu vào lòng…
Khi cô bước ra, gương mặt cô đã trở lại rạng rỡ. Cô mỉm cười nhìn ông bác sĩ, rồi, vừa mở cái xắc đỏ vừa hỏi:
- Bao nhiêu vậy, bác sĩ?
- Không có bao nhiêu. Chừng chữa xong rồi cô hãy trả.
- Bác sĩ cho con trả mỗi lần, chớ đợi hết bịnh, tiền đâu con trả. Cái thứ đi làm lậu như con…
- Cô yên tâm. Rồi mình tính.
Ông bác sĩ đưa dĩa nữ trang:
- Cô đừng quên mấy thứ này.
Cô gái phì cười, không đeo vào người mà trút hết vào xắc, rồi hỏi:
- Chừng nào con trở lại nữa, bác sĩ?
- Tuần tới, cũng ngày này giờ này.
Bác sĩ mở tủ thuốc, chọn lấy ra hai chai có dán nhãn sẵn, trao cho bịnh nhân:
- Trên nhãn có ghi liều lượng: mỗi ngày, cô uống sáng trưa chiều, mỗi thứ hai capsule.
Ra đến cửa phòng mạch, ông bác sĩ già cầm bàn tay cô bịnh nhân trong hai bàn tay của ông, lắc nhẹ:
- Bớt hút thuốc đi, nghen! Từ từ rồi tôi sẽ chữa cho cô vụ ghiền thuốc nữa.
Ngập ngừng một chút rồi ông nói, giọng ôn tồn:
- Tôi muốn nói với cô điều này…
Cô gái chớp chớp mắt chờ. Chắc là lần đầu tiên cô được một ông già cầm tay một cách ân cần như vậy. Bác sĩ nói:
- Mình là người Việt Nam, ăn mặc theo "punk" không hạp với con người với bản chất của mình chút nào hết. Cô đâu có xấu mà cô làm cho xấu đi, uổng lắm! Mình phải xứng đáng là Made In VietNam, chớ cô.
Cô gái nhìn vào mắt ông bác sĩ, không nói gì hết, chỉ siết tay ông già một cái thật mạnh, rồi bước ra xe, một chiếc xe hơi cũ mèm phải đề tới bốn lần mới nổ máy!

  Ông bác sĩ Lê ngồi uống cà phê với tôi ở khu Phước Lộc Thọ (Orange County - Nam Cali). Ông kể tiếp :
- Anh biết không, lần sau cô Kim đến phòng mạch, ăn mặc rất dễ thương. Chẳng có chút gì "punk" hết! Lần khám bịnh đó, tôi có hỏi cổ sao không về sống với thằng bồ ở Louisiane có phải hơn là sống cù bơ cù bất ở Cali. Cổ nói như mếu: "Ảnh có vợ rồi". Tôi biết: như vậy là cổ kẹt thiệt. Tôi đem chuyện này kể cho vợ tôi nghe. Bả cảm động lắm nên đề nghị giúp tiền cho cổ học một cái nghề gì đó, uốn tóc, làm nail chẳng hạn, để có công ăn việc làm vững chắc hơn là đi làm lậu tầm bậy tầm bạ.
Tôi nói chen vào:
- Chắc gì cổ chịu. Nghe anh kể, tôi đoán chị này cũng tự ái lắm.
- Anh nói đúng. Cổ từ chối hoài. Sau nhờ vợ tôi mời cổ về nhà khuyên nhủ, coi như là trong thân tình, cổ mới chịu. Hôm đó, cổ ôm vợ tôi vừa khóc vừa nói: "Con cám ơn ông bà. Cám ơn ông bà."
- Sau đó cổ có đi học thiệt không?
- Có. Học làm nail. Học giỏi nữa là khác.
- Cổ bây giờ ra sao rồi ?
- Mới đầu làm thợ, làm công cho người ta. Bây giờ vừa làm thợ vừa làm chủ. Khá lắm!
- Mừng cho cổ, há!
- Cổ xách đồ nghề tới làm nail cho vợ tôi, con út và hai con dâu tôi thường lắm. Làm không lấy tiền. Cổ cứ nói với mấy con tôi: "Tôi chịu ơn ông bà bác sĩ biết đời nào mới trả cho hết, mấy cô biết không? Tôi không dám nói ra, chớ mỗi lần tôi cầm bàn tay của bà bác sĩ để làm nail, tôi vẫn nghĩ không có bàn tay này thì làm gì tôi thoát ra khỏi hoàn cảnh của tôi hồi đó để có những gì tôi có hôm nay…"
- Dễ thương quá!
- Noël, ngày Tết…cổ đều mang quà đến tặng vợ chồng tôi.
- Con người ở có tình có nghĩa quá, anh há!
- Đã hết đâu! Cổ còn nhớ đến ngày giỗ của ba má tôi nữa. Mấy ngày đó tụi con tôi có đứa quên chớ cô ta không bao giờ cô ta quên. Ngày đó, cô đem đồ tới cúng và ở lại phụ vợ tôi nấu nướng dọn giẹp nữa. Cho nên vợ tôi quí cô ta lắm!
Nói xong, bác sĩ Lê vỗ vai tôi, cười:
- Anh thấy không? Cô ta mới đúng là "Made In VietNam" đó! Còn nguyên chất, hè!
Ông Lê vui vẻ cầm tách cà phê vừa nhâm nhi vừa nhìn quanh. Người Việt Nam đi đầy trong thương xá. Cung cách có hơi khác nhưng nói năng thì y hệt như ở bên nhà. Một vài tiếng chửi thề rớt rơi đây đó, nghe rất tự nhiên. Bỗng ông quay sang hỏi tôi mà nghe như ổng tự hỏi ổng:
- Không biết ở xứ Mỹ này, đồng hương lưu vong, có ai lâu lâu nhớ lại rằng mình "Made In VietNam", không?
- Có chớ anh! Nhưng cũng có người chẳng những không nhớ mà còn tự đóng cho mình con dấu "Made In USA" nữa, anh à. Thứ đó bây giờ thấy cũng nhiều!
Tôi đưa tách lên môi uống ngụm cà phê cuối cùng, bỗng nghe cà phê sao mà thật đắng…



Monday, July 16, 2012

THƠ, NGUYỄN THỊ THANH DƯƠNG














Nếu anh là một người Huế rất xưa ...
Em không biết nấu món ăn Hoàng tộc,
Cố đô của anh bao mùa ly loạn,
Theo chân người món Huế cũng ra đi.

Em sẽ đãi anh một món nhà quê,
Rất quen thuộc hàng ngày trong cuộc sống,
Anh người Huế cầu kỳ hay khó tính,
Em sẵn sàng nghe dù tiếng chê, khen.

Em sẽ nấu bằng ngọn lửa tình em,
Bún Bò Huế nhớ về quê hương cũ,
Em cay nồng vì anh khoanh ớt đỏ,
Lá rau thơm cho anh được vừa lòng.

Em đãi anh với tất cả tâm tình,
Chuyện đời thường, chuyện tình yêu là một,
Anh và em lỡ duyên này không gặp,
Em sẽ chờ nếu còn có kiếp sau.

Sunday, July 15, 2012

NẮNG
TƯỜNGVI NGUYỄN

(California)

rất chiều, và nắng rất vàng
hay là nắng cũng rộn ràng như tôi
như tôi ngồi nhớ xa xôi
nắng nghiêng bóng nhớ nhân đôi nỗi niềm
thả câu lục bát bên thềm
đong đưa tóc gió êm đềm cỏ hoa...

Thursday, July 12, 2012



VIẾT CHO NHỮNG HÀNG RÀO GIỮA LÒNG THÀNH PHỐ

GIÓ LANG THANG (Dân Làm Báo)



















Tuổi thơ tôi có kí ức một đoạn hàng rào
Ngày còn bé tôi vẫn chui qua trộm ổi
Bị bắt được, chưa ai dặn dò nói dối
"Con qua vườn, bứt mấy trái mà thôi..."



Thủa đến trường tôi vẫn nhớ những hàng rào
Tôi với bạn thường leo qua trốn tiết
Phố xá loanh quanh những buổi chiều mải miết
Đi đâu về?”, cô giáo vẫn hỏi thăm.

Và lớn lên tôi đã gặp những hàng rào
Không phải chặn những đứa trẻ qua vườn hái trộm
Không phải chặn những chàng trai lân la trốn học
Mà chặn dòng người yêu nước trước lũ xâm lăng

Ai đã ngăn
Tiếng hồn thiêng sông núi gọi
Vọng bao đời từ Tổ quốc bốn ngàn năm
Ai đã ngăn
Tiếng lòng mẹ Việt khóc
Những đứa con ra biển không về

Ai đã ngăn
Để đất nước ngày càng nhỏ lại
Bởi ngoại xâm và một lũ nội gian ?

Những hàng rào dựng lên giữa lòng thành phố
Biến một dân tộc anh hùng
Thành hèn nhát
Giấu nụ cười chua chát trên môi.

Những hàng rào dựng lên giữa dòng thành phố
Biến những chàng trai trẻ
Nhiệt huyết tuổi đôi mươi
Thành một hạng người lai tạp

Những hàng rào dựng lên giữa lòng thành phố
Bảo vệ lũ giặc Tàu
Đang từng ngày
Nhuộm đỏ máu quê hương

Nếu một mai những hàng rào biến mất
Đất nước này cũng biến mất theo chăng?
Nếu một mai không còn ai xuống phố
Mảnh đất này có được giữ vẹn nguyên?

12/7/2012

Saturday, July 7, 2012

NHỮNG CHIẾC GIỎ XE

phạm ngũ yên


1.

Vài tuần nửa đến tựu trường.  Những cánh hoa hững hờ phai màu quá khứ. Con đường có trạm xe buýt vắng tanh không tìm thấy một bóng dáng học trò đứng đợi. Một chút mưa hiu hắt chiều nay, khi tôi ngồi trong quán cà phê Mozart cạnh bờ hồ Austin. Vẫn biết không thể nào quên một ký ức mờ mịt, nhưng lòng vẫn nhói đau khi nghe một bài hát cũ. Ngày xưa. Ngày xưa. Tất cả xa quá rồi.
Khi người ta giữ mãi vết thương trong lòng, người ta sẽ chẳng bao giờ mất dấu một quá khứ. Cơn gió mùa hè lẫn quất mùi mạc lan bay qua khứu giác. Như mùi vị nụ hôn đầu không tàn phai và không bỡ ngỡ. Mạc lan là một loài hoa bên đường, khi tôi còn đi lính ở Đà Lạt. Hoa có màu tím và thẩm màu đêm như cánh bướm lạc vào đời. Những tháng năm vội vàng đẩy thanh xuân tôi về phía trước. Gả con trai từng biết khổ đau khi chưa biết trưởng thành.
Từng chiếc xe chở chiều qua phố, tiếng rít róng của bánh xe thắng gấp như một lời chia tay dứt khoát. Thành phố biển mù mịt sau lưng, như một giấc mơ chưa từng rõ nét. Cơn mưa vừa đổ xuống một góc lòng bao dung.
Những người khách ngồi uống cà phê bên ngoài quán vội chạy vào trong tìm chỗ trú. Nước rơi mạnh mẽ trên mặt bàn gỗ cũ mới vừa bốc hơi nóng hồi trưa. Góc phố bên kia đường vắng vẻ và sạch như chưa có bàn chân người lai vảng. Người phụ nữ trước mặt tựa chừng như muốn cười mà không phải. Bầu ngực thanh tú hiện rõ đàng sau vạt áo thun màu đen hở sâu. Khoảng trũng nhìn chóng mặt.

Ðêm nay sẽ có một kẻ trở về không ngủ được vì thao thức. Vì trái tim mọc thêm nỗi nhớ. Trong hơi thở của thời gian qua rất khẽ khàng, mùa hè mới mẻ như giọt rượu vừa nhấp môi. Những con đường nhỏ nhoi như những đường chỉ tay, đan kẻ vào nhau và chìm vào phố đêm. Những cột điện ngậm ngùi nghe ngóng một thời son trẻ. Tôi sẽ viết về thời niên thiếu của tôi, như viết về một giấc mơ trong đó chứa những  điều huyễn hoặc, những tình yêu không trọn vẹn. Và biển ngoài kia chưa từng dâng sóng gió.

Mười bảy tuổi tôi muốn làm người lớn. Trót tương tư một màu hoa giống như trót tương tư một người.
Lớp học cũ vùng biển nằm lọt trong góc sân trồng đầy cây điệp. Chính từ nơi đây, từ dưới những tàn lá xanh um và cành nhánh sù sì, những mối tình thơ dại được dấy lên. Những người con gái dáng điệu như những con sơn dương và đôi mắt liếc nhanh như tia chớp rình chụp những con mồi. Là những gả trai khờ khạo.
Một ngày nào đó, tôi không còn ngồi trong lớp để nghe tiếng phấn miêt lên mặt bảng và bụi phấn rơi lả tả dưới chân Thầy, Cô.  Những chuyện chợt nhớ chợt quên theo nhau ùa về, như một đoạn phim không có lời thuyết minh. Tôi sợ tôi không nhớ kịp về người con gái, có tên Hoàng Hoa. Kỷ niệm ùa về hớn hở tươi xanh như một cành ngo của núi đồi Ðà Lạt.
2.

Nàng là em bà con với Hoàng Lực. Một bạn học cùng lớp với tôi những năm Trung Học. Vũng Tàu ngày đó chỉ có một ngôi trường nằm bên hông Nhà Thờ Lớn, đường Trần Hưng Ðạo. Nếu chạy dài thêm nửa, con đường sẽ nhập vào đường Hoàng Hoa Thám và bắt tay với biển. Nếu đi ngược trở lại, đường sẽ đụng với sân đá banh. Sau lưng sân đá banh là ngọn Núi Nhỏ. Nhà tôi nằm trên con đường chạy dài dưới chân Núi. Có một con đường nửa, mang tên Lê Lợi, cũng thơ mộng và mát rượi hai hàng me. Suốt năm lá me rụng đầy hai bờ đường không hề biết ánh nắng mặt trời. Nhà Hoàng Hoa nằm trên đó.
Tôi không biết tôi yêu Hoàng Hoa trước khi tôi yêu những cây me hay tôi yêu cây me trước khi tôi biết yêu nàng. Sau này, về Sài Gòn, đi bộ trên đường Lê Thánh Tôn tôi thấy những thân cây me Sài Gòn thiếu phần thơ mộng hơn những cây me Vũng Tàu. Lá me Sài Gòn chứa nhiều bụi bậm và sớm ngã màu hơn. Và dưới những cây me Sài Gòn có quá nhiều gánh hàng rong.  Có quá nhiều gập ghềnh, ngổn ngang như tấm lòng người dân thành phố.
Khi tôi rời xa Vũng Tàu như rời xa một chặng đường đời, hàng me đã vẫy mãi những cành lá để chia tay. Tôi không dám nhìn lui lại sợ nổi buồn đậu xuống suốt những đêm dài trống trải.

Tháng bảy về khan lạc tiếng ve. Mùa hè có thêm những âm thanh quen thuộc như báo trước một lời tiên tri. Vì tôi sẽ chẳng trở về kịp để chứng kiến những đổi thay của trường lớp. Mười năm lính tráng ghim chặt hồn tôi xuống mọi bến nước sông đời như vết mực từng ghìm chặt lớn khôn xuống mặt bàn. Một đôi lần, cũng trong ngăn bàn đó, tôi bắt gặp một trái cóc chua, một viên xí muội bỏ quên. Một chiếc kẹp tóc nằm hững hờ nhưng từng đâm suốt hồn ai đau điếng? Tiếng chim rũ rượi dưới một bờ tường thấp, nhưng có khả năng ngăn chia hai phần đời.

Khi tôi đi lính và về phép từ vùng một Chiến Thuật, tôi ghé ngang qua trường cũ. Không phải để nhìn lại những thay đổi mà để hồi tưởng lại một thời có tình yêu mà không dám ngỏ. Ngày chủ nhật không cón ai trong sân trường và người lính sẽ nhìn thấy một nỗi côi cúc. Sân chơi Volley đã bị dẹp bỏ và dời về một khoảng đất khác, cùng với phòng thí nghiệm của trường. Những gánh hàng rong mà Hoàng Hoa và các bạn của nàng thường chiếu cố tận tình trong giờ ra chơi đâu còn để nhường chỗ cho những sân gạch chói chang nắng hè.
Các bực thềm nứt nẻ dẫn lên phòng học từng trở trăn dấu giầy thơ dại. Tôi ngồi xuống trước cửa lớp mà tôi học năm Ðệ Nhị, nhìn ra một góc sân cờ. Như ngày xưa tôi đã từng ngồi đó để chờ ngóng những cơn mưa. Màu cờ không tượng trưng cho một màu môi hay một màu đời của tôi mà ngượng ngùng mang trên nó một chút bụi buồn bay xa. Những con chim sẻ của một mùa thi bay mất từ năm nào không trở về góc hiên để làm tổ.
Dù sao thì trường của tôi vẫn chưa thay đổi. Những đứa bạn giống như tôi rời bỏ trường để vào lính. Những hướng đời giống nhau nhưng số phận thì đổi khác. Có người mang vinh quang và vòng nguyêt quế trên cổ. Có người nằm xuống đâu đó trên một đất đai anh hùng. Có người rách rưới tả tơi trở về. Có người lành lặn hạnh phúc. Tất cả vừa là những khán giả vừa là những diễn viên trong một vở kịch đời tưởng chừng không có hồi kết thúc. Vì cuộc chiến dài quá. Dài đến nỗi nhiều khi tôi nghĩ chúng tôi sinh ra, học hành và lớn lên để làm đầy cho những bất hạnh.
Sau năm 1975, những kết cuộc giống nhau rụng xuống trên vai những người lính chúng tôi. Giống như một vở tuồng được viết ra từ những soạn giả tồi, những nhân vật chính quay lui về phía hậu trường không có tiếng vổ tay để rồi bước hụt chân vào những vực thẳm ngút ngàn. Bình minh trở thành lạnh giá.
Một lần đi qua trường cũ. Tôi không nhìn thấy sự quen thuộc và lòng khô khốc như đi qua một rừng chiều.
Hai hàng cây sao bên hông nhà thờ già nua và lầm than vì tiếng mời gọi đổi đời. Tiếng những nhát chổi về khuya của người phu quét đường như tiếng cào lên da thịt. Nhà thờ thiếu tu bổ trông xanh xao như một giáo đường mùa sơ tán.
Hoàng Hoa có chồng và có con từ những ngày tôi vào lính. Từ những ngày tình yêu của tôi vổ cánh bay ra khỏi đời nàng. Những ngày chồng Hoàng Hoa đi tù nàng lăn xả vào đời một cách kiêu hảnh. Có lúc nàng để quên thanh xuân mình trôi tuột vào những ngày tháng cơm áo. Hạnh phúc tưởng chừng như vắng mặt và nếu có, người ta có thể chia xẻ nó ra làm nhiều mảnh giống như chia xẻ một ổ bánh hay một ký thịt.
Vài lần tôi gặp nàng bán thuôc tây ngoài chợ chiều, góc đường Duy Tân và Trần Hưng Ðạo. Bên kia hàng rào là biệt thự do người Pháp xây bây giờ dùng làm trụ sở Ủy ban Phường Châu Thành. (Vài người bạn học của tôi ngày xưa đang có chức phận trong trụ sở đó). Màu mắt nàng vẫn xanh màu biển cả, nhưng sự tự tin đã không còn. Ðôi mắt đã có thời tôi sùng bái và làm tôi tương tư suốt nhiều năm dài. Bây giờ đang nhìn xuống bước chân mình. Chiếc áo bà ba chật căng một đời lam lũ. Chiếc xe đạp nữ dựng bên cạnh. Trong giỏ xe là một thùng carton đựng đầy thuốc và đường về mênh mông.
3.
Một thi sĩ Sài Gòn sau năm 1975 đã viết ra những vần thơ ca tụng chiếc giỏ xe đựng đầy hoa phượng. Và thi vị mối tình từ một màu hoa trót đỏ bầm vì roi gạo quất ngang qua nó mỗi ngày:
“những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng
em chở mùa hè của tôi đi đâu?...”

Không ai phủ nhận bài thơ “Mối Tình Đầu” của Đỗ Trung Quân là một bài thơ hay đáng được trân trọng trong những bài thơ tình thời cộng sản. Những câu thơ bay bổng và bồng bế những hạnh phúc học trò. Những câu thơ nói dùm bạn và tôi những tình câm vụng dại và sũng ướt màu hoa phượng.
Nhưng bây giờ chúng ta hãy thử hình dung ra một hình ảnh khác, bên cạnh một bối cảnh mang nhiều nắng gió ngợp trời. Một người đàn bà vừa qua tuổi hai mươi. Mới ngày nào nàng còn đi những bước chân mềm của một loài sơn dương để đến trường. Mới ngày nào nàng còn e ấp vành nón che dấu nụ cười vì chợt nghe một lời tỏ tình xa lạ. Nàng chưa từng biết vu quy và chưa từng biết hồn phượng rưng rưng như thế nào nếu một ngày mai xa rời trường lớp. Nhưng hôm nay, trên con đường gập ghềnh vì ai đã trải lên đó những điều nghi hoặc. Những lời phù thủy có thể trấn an những người no và an lòng những kẻ đói… “ với sức người sỏi đá cũng thành cơm…” Trong khi ruộng đồng Việt Nam còn đầy thuốc khai quang và mìn bẩy. Máy cày còn nằm im trong kho và phân bón còn nằm yên trên những hợp đồng.
Những người thiếu nữ như vậy không hề biết đến mùa hè hay một màu  phượng cháy đỏ trong lòng. Vì họ đang mãi cúi đầu chạy vạy từng bửa cơm. Họ không từng biết đến một lời chim vang lên như một lời tỏ tình. Và những đôi mắt trong veo từng làm bối rối hồn nhau…
Sao thi sĩ không ghi xuống thật lòng trên trang giấy nhòe nước mắt khổ đau và nghiệt ngã, rằng trong những giỏ xe đạp một thời thơ mộng kia bây giờ là thuốc tây. Là đường đậu nhu yếu phẩm. Là vải vóc đem ra buôn bán giữa quán đời mênh mông. Những lời thơ như vậy chắc sẽ mượt mà trung thực hơn và với đụng tới hạnh phúc đau lòng.
Những người phụ nữ đó không cần biết mùa hè trôi đi đâu vì cuộc đời quanh năm lạnh buốt mùa đông. Cuộc đời là những đêm dài trùng điệp khổ đau và trùng điệp nước mắt. Thảng hoặc- nếu có- vài đóa hoa rớt lạc lõng trên giỏ xe, giống như những đóa hoa vừa ngắt đi từ những hương trinh đầu đời. Chúng rụng xuống cùng những dòng lệ thơ ngây và ghim chặt xuống hồn thương đau để bán cho người ngoại quốc.
Người ta sẽ nghe những câu thơ của Ðỗ Trung Quân để an ủi rằng Việt Nam đang trải qua những năm tháng tuyệt vời. Người ngoại quốc vô tâm sẽ nhìn về Việt Nam với lòng biết ơn vì một dân tộc anh hùng đã sản sinh ra những thiên anh hùng ca, đã biết gượng đứng lên sau những hoang tàn đổ nát. Họ không biết đàng sau những lời thơ phồn vinh kia là những lời nguyền rũa. Là một dân tộc chuyên nhổ rồi lại liếm. Hôm qua chống Mỹ cứu nước và hôm nay đã rước Mỹ cũng để... cứu nước.
Những chiếc giỏ xe mà trong đó có những đóa hoa- nếu có- là của những người dân cùng đinh áo ôm khố rách, hái từ vườn hoa Mai Xuân Thưởng Hà Nội, để đem lên khiếu kiện.  Để cúng tế những con ma sống đang ngồi trong Bắc Bộ Phủ... Họ đòi lại đất đai bị cưỡng đoạt và đòi lại những quyền được làm một công dân bình thường.

Những chiếc giỏ xe chở đầy bất hạnh
Em chở cuộc đời của em đi đâu…?

PNY

VIẾT CHO MỘT NGÀY THÁNG BẢY

 GIÓ LANG THANG



Ai vẽ hình hài Tổ quốc tôi
Bốn ngàn năm chân đất
Từ thủa cha ông dựng cờ mở nước
Đến bây giờ chân vẫn lấm lem.

Đất nước này có phải sinh từ truyền thuyết nàng Ngâu
Nước mắt cứ rơi mỗi ngày chứ không riêng gì tháng bảy
Hận thù căm phẫn trong lòng người vẫn từng giờ bùng cháy
Tiếng khóc mẹ già vẫn day dứt từng đêm.


Ai vẽ hình hài Tổ quốc tôi
Những chiến công trong sử sách vẫn được đem ra đếm
Nhưng không đếm được
Có bao nhiêu giọt máu đào rớt xuống quê hương.

Lịch sử đất nước đâu chỉ được viết bằng máu xương
Mà bằng cả tiếng nói thân thương mà khi lọt lòng mẹ gọi
Bằng cả ca dao chầu văn hát nói
Tiếng hát mong chờ khi mẹ tiễn con đi...

Ai vẽ hình hài Tổ quốc tôi
Vẽ nên hình Nam Bắc phân li
Để mấy triệu người dân đất Việt
Ôm súng đạn ngoại bang mà trút thẳng vào nhau

Rồi biết bao người nằm dưới những thân tàu
Chìm dưới biển Đông khi trên đường bỏ xứ
Gạt nước mắt khi nhìn quê hương từ mặt biển
Lần cuối cùng nhìn về chữ S Việt Nam?

Để hôm nay
Những những người nông dân lầm lũi
Khóc không thành lời trên mảnh đất mình
Rơi vào tay kẻ lạ
Những người vợ khóc chồng những đứa nhỏ khóc cha
Đi biệt không về

Có biết chăng?
Những người con xót xa vì mẹ Việt
Bước xuống đường hô vang tên đất nước
Nhìn thấy trước mặt mình là những tai ương.

Việt Nam ơi! Con xin gọi tên Người là Tổ quốc
Non nước này chưa một phút bình yên
Đứng cạnh con, người hô "Muôn năm!" khản tiếng
Con cay mắt mình rồi, ơi hỡi Việt Nam!
6/7/2012

Thursday, July 5, 2012



HOÀNG SA NỘ KHÍ PHÚ
KHA TIỆM LY- THÁI QUỐC TẾ



Ngựa cũ quen đường,
Đĩ già lậm nết.
Việc phế hưng mỗi thuở khác nhau,
Mộng bá chủ bao đời y hệt!
Ta thấy ngươi,

Từ Đông Chu bị họa Thất Hùng,
Đến Hậu Hán bị xiềng Tam Quốc.
Đất Trường An thây chất chập chùng,
Bờ Vô Định xương phơi chất ngất!

Đã biết,
Hễ gieo chinh chiến là kín đất đau thương,
Nếu động can qua thì mịt trời tang tóc.

Vậy mà sao,
Chẳng lo điều yên nước no dân,
Lại quen thói xua quân chiếm đất?

Như nước ta,
Một dải non sông, nam bắc chung giềng,
Trăm triệu anh em, trước sau như nhất.
Hoàng Liên, Tam Đảo, Hồng Hà, Cửu Long , là máu là xương,
Phú Quốc, Côn Sơn, Trường Sa, Hoàng Sa là da là thịt.
Máu xương đâu lẽ tách rời,
Thịt da dễ gì chia cắt?
Mà là liền tổ quốc phồn vinh,
Mà là khối giang sơn gấm vóc.
Người trăm triệu nhưng vốn một lòng,
Tim một trái dẫu nhiều sắc tộc!
Nữ nhi chẳng thiếu bậc anh hùng,
Niên thiếu cũng thừa người kiệt xuất.
Mười năm phục quốc, gươm Lê Lợi thép vẫn sáng ngời,
Ba lượt phá Nguyên, sông Bạch Đằng cọc còn nhọn hoắt.
Thùng! Thùng! Thùng! Liên hồi giục, trống Ngọc Hồi hực bước tiến quân.
Đánh! Đánh! Đánh! Luôn miệng thét, điện Diên Hồng, vang lời sát thát.
Ải Chi Lăng, Liễu Thăng chết còn lạc phách kinh hồn,
Sông Nhị Hà, Sĩ Nghị chạy còn đứng tim vỡ mật.
Thoáng thấy vó câu Thường Kiệt, Khâm Châu ngàn dặm, không còn bóng quỉ bóng ma,(1)
Chợt nghe tiếng sét Đống Đa, Quảng Đông toàn tỉnh chẳng tiếng con gà con vịt. (1)
Hùng khí dù dậy trời Nam,
Nghĩa nhân lại tràn đất Bắc:

Thương ngươi binh bại, tàn quân về còn cấp xe ngựa rình rang (2)
Trọng kẻ trung can, hổ tướng chết vẫn được khói hương chăm chút.(3)
Mạc Cửu đem quân lánh nạn, chúa ta vẫn mở dạ đón người,
Hoa kiều mượn đất ở nhờ, dân ta vẫn chia cơm xẻ thóc.
Phúc cùng hưởng khi mưa thuận gió hòa,
Họa cùng chia lúc sóng vùi gió dập.
Giúp các ngươi như kẻ một nhà,
Thương các ngươi như người chung bọc!
Thế mà nay,
Ngươi lại lấy oán trả ơn,
Ngươi lại lấy thù báo đức!
Ăn đàng sóng, nói đàng gió, y như đĩ thúi già mồm.
Lộn bề ngược, tráo bề xuôi, khác chi điếm già bịp bạc.

Kéo neo tuần hạm, ào ào đổ bộ Hoàng Sa,
Quay súng thần công, ầm ỉ tấn công Đá Bắc.
Chẳng chấp hải qui,
Chẳng theo công ước.
Quen nết xưa xấc láo, giở giọng hung tàn,
Lậm thói cũ nghênh ngang, chơi trò bạo ngược.

Nói cho ngươi biết; dân tộc ta:
Từng đánh bọn ngươi chỉ với ngọn giáo dài,
Từng đuổi bọn ngươi chỉ bằng thanh kiếm bạc.
Từng đánh Tây bằng ngọn tầm vông,
Từng đuổi Nhật với thanh mác vót!

Vì khát tự do mà uống nước đìa,
Vì đói độc lập mà ăn cơm vắt.
Sá chi tóc gội sa trường,
Đâu quản thây phơi trận mạc.
Hãy liệu bảo nhau,
Nhìn thây Gò Đống mà liệu thắng liệu thua,
Thấy cọc Bạch Đằng mà nghĩ sau nghĩ trước!
Đừng để Biển Đông như Đằng Giang máu nhuộm đỏ lòm,
Đừng để Hoàng Sa là Đống Đa xương phơi trắng xác!
Nếu ngươi dựa vào hỏa tiển, phi cơ,
Thì ta cũng có tuần dương, đại bác.
So vũ khí, thì kẻ nhược người cường,
Đọ trái tim, coi ai gang ai sắt?
Thư hãy xem tường,
Hoàng Sa hạ bút.
________
Chú thích:
(1) Sử ghi: Khi Lý Thường Kiệt đem quân qua Khâm Châu, Liêm Châu, cũng như khi quân Thanh bại trận Đống Đa chạy về, thì dân Tàu vùng biên giới kinh hoàng chạy theo. “Từ Nam Quan về bắc hàng trăm dặm vắng tanh, không thấy bóng con gà, con vịt”
(2) Sự kiện Lê Lợi cấp ngựa và lương thực cho tù binh quân Minh về nước
(3) Sự kiên dân ta lập miếu thờ Sầm Nghi Đống hạ tướng của Tôn Sĩ Nghị)



Wednesday, July 4, 2012


TRÍ THỨC THEO CỘNG

BXCANH

Có người đã cho rằng điều đáng ghi nhớ nhất trong thiên niên kỷ vừa qua của nhân loại là sự hình thành và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Theo thiển ý, chẳng những đó là điều đáng ghi nhớ nhất, mà còn là sự kiện lịch sử quan trọng nhất. Nhân loại chưa bao giờ bị thống khổ và kinh hoàng như thế, với hàng trăm triệu người bị sát hại dã man, bị đầy đọa xuống hàng súc vật, và thế giới nhiều phen đã bị cộng sản đẩy đến bên bờ một cuộc chiến tranh nguyên tử. Nếu trí ngu con người đã tạo ra cái chủ nghĩa ác ôn này, thì cũng chính trí khôn con người đã nhận ra con quái vật đó, và tiêu diệt được nó. Một số người Việt Nam, thế hệ cha anh của chúng ta hôm nay, đã đi rước lấy cái chủ nghĩa giết người này về, gây tang thương máu lửa trong gần một trăm năm qua, với những khổ đau chất ngất cho chúng ta, và con cháu tới ngày nay. Trong khi tại cái nôi của chủ nghĩa này, người ta đã chặt đầu con rắn độc cộng sản từ lâu, thì chúng ta vẫn còn đang bị nó xiết cổ!
Tại sao?
Chúng ta đã quằn quại, khổ công suy nghĩ, phân tích, xem tại sao tới nay cộng sản vẫn còn ngự trị trên nước ta, và đã có nhiều câu trả lời:
Tại thời cơ chưa tới; tại dân trí ta còn kém, tại nền văn hóa Khổng giáo đã khiến các sĩ phu chỉ biết cúi mặt tôn thờ chính quyền, dù là chính quyền vô đạo lý và bất nhân; tại chúng ta thiếu đoàn kết, tại cộng sản Việt được Chệt đỏ chống lưng cho nó ngồi, tại chính sách Hoa Kỳ muốn duy trì việt cộng để be bờ chống Tàu cộng tràn xuống Đông Nam Á v.v… Đồng ý với câu trả lời nào, là tùy sự suy nghĩ của mỗi người, và không phải là mục đích của bài viết này. Điều tôi muốn trình bày là tại đất nước ta, đã có một tầng lớp trí thức đem tài năng và uy tín của họ, để phục vụ cho một bọn cướp tàn bạo nhất trong lịch sử, giúp cho giặc quàng cái xiềng vô cổ dân ta, và chính bản thân họ đã lãnh hậu quả của sự sai lầm đó ra sao.
Tại sao một bọn vô học, hiếu sát và lưu manh, có đầy đủ tính chất của một bọn cướp, lại đã có thể nắm đầu những kẻ được đất nước nuôi dưỡng để lãnh đạo, những kẻ "đầu đầy chữ, bụng đầy sách" có sự hiểu biết hơn người, và là tinh hoa thời đại?
Tại sao trong lúc người dân ít học đã biết rõ sự tàn độc và nhưng mưu đồ đen tối của lũ bịp cộng sản, thì có những nhà trí thức lại mê muội đồng hành với bọn đạo tặc và ca ngợi cái ác? Thật là những câu hỏi làm đau đầu và khó trả lời!
Chủ nghĩa cộng sản được một số cán bộ ít học đưa vào Việt Nam. Có nhiều lý do để cho rằng bọn này chẳng hiểu gì nhiều về cái chủ nghĩa mà chúng nó muốn gieo rắc. Xin đừng ai ngụy biện để chứng minh rằng những ông Nguyễn Sinh Cung, Đặng Xuân Khu, Trần Phú, Đỗ Mười, Lê Duẩn, … và hầu hết các cấp lãnh đạo của Việt cộng, đã đọc và hiểu thấu đáo Tư Bản Luận! Nếu có ông trí thức nào bỏ công đọc các kinh điển của chủ nghĩa Mac, rồi "phụ đạo" cho các lãnh tụ, thì với trình độ văn hóa tiểu học, các lãnh tụ đó có sức để hiểu nổi không? Cụ Nguyễn Mạnh Tường, một người nằm "trong chăn" cộng sản, viết cuốn Hồi Ký Un Excommunié, đã mỉa mai bọn lãnh tụ cộng sản về sự mù tịt, không biết chút gì về cái chủ nghĩa mà chúng cuồng tín. Thật ra, cho tới lúc này, bọn đầu sỏ của Việt cộng trong cái gọi là Bộ Chính Trị, tự thâm tâm, đều biết chúng chỉ là một bọn bịp.
Chúng như một lũ mù đang dọ dẫm tìm đường đi để tự cứu! Cộng đảng đã từng sửa sai bao nhiêu lần, sửa lại theo cái đã cho là sai, và cuối cùng đưa ra cái mô hình xã hội mà chính chúng cũng không dám nói rõ là chúng đang rụt rè trở lại con đường tư bản: Kinh Tế Thị Trường Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa! Thế nhưng trong khi đó, một số trí thức, ngay từ những ngày đầu, khi chủ nghĩa cộng sản mới được du nhập xứ Việt, đã vội tung hô bọn cộng, giúp chúng gieo rắc môt cái chủ nghĩa vô cùng tàn độc! Vẻ uyên bác, cùng với xảo thuật và miệng lưỡi của đám trí thức theo cộng này, đã góp phần quan trọng cho sự thành công của lũ chơi bạc bịp! "Xã hội không còn giai cấp; làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu; phá tan biên cương loài người sống thân yêu …", những món hàng không tưởng đầy sự bịp bợm ấy, đã một thời được các ông trí thức theo cộng say sưa truyền đạt, nay trở thành chuyện khôi hài vô duyên, chẳng còn anh Cộng lớn, Cộng bé nào dám nhai lại. Không biết chúng ta có nên gọi những ông có học, có bằng cấp cao, mà đầu óc đã ngừng suy luận, hoặc chỉ suy nghĩ về danh, lợi, này là trí thức? Trí thức, như chúng ta thường nghĩ, phải là kẻ hiểu sâu, biết rộng, phân biệt phải trái, là tinh hoa chỉ lối cho người khác noi theo. Ngoài lãnh vực chuyên môn, người trí thức phải biết quan tâm đến cái thể chế và tổ chức xã hội mình đang sống, góp sức làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Người trí thức chỉ đường cho quần chúng noi theo, phải nhận chân được sự lương thiện và sự bịp bợm. Có người sẽ coi lại: biển học thì mênh mông, các tổ chức xã hội, thể chế chính trị thì phức tạp, ai mà dám cho mình là người biết hết sự đời. Trong khi đó thì bọn Cộng sản là bậc thầy của sự bịp bơm và là bọn điếm đàng quốc tế, được huấn luyện và dạy dỗ những phương cách vô cùng xảo quyệt để lừa bịp. Vả lại, chúng tôi cũng không thích nghiên cứu chính trị, nên không biết gì về chủ thuyết cộng sản. Ấy cũng là sự thường vậy!. Thưa vâng, không ai biết hết sự đời! Ít người muốn tìm hiểu về chính trị. Nhưng cái thể chế chính trị do một bọn cướp áp đặt lên đầu mình, thì mình cần, và có bổn phận phải biết nó ra sao chứ! Huống chi chủ thuyết cộng sản và những hậu quả khốc liệt của nó trong gần một thế kỷ qua, trên khắp thế giới, thì không ai có thể chối bỏ là mình không biết tới nó. Vả lại, nếu đã nhận mình không biết rõ về cộng sản, thì lý do gì khiến mình đi theo nó, ca tụng nó? Một điều quan trọng thiết thân đến đến chính ta, đến con cháu ta, đến xã hội mà ông cha đã nghàn năm vun đắp như thế, mà những kẻ được đời tôn xưng là trí thức lại nhắm mắt tin theo. Không những chỉ hùa theo cái ác, các ông còn dâng hiến tài năng và trí óc cho bọn dã nhân, để chúng thêm nanh thêm vuốt, trong cái xảo thuật bịp bợm và cướp đoạt chính quyền. Nếu trí các ông ù lì, con tim hóa đá, không còn suy nghĩ, và vô cảm trước bao tang thương dâu biển do cộng sản gây ra, thì các ông trí thức, cũng còn có đôi mắt, đôi tai chứ? Có cần chi phải vận dụng tới trí thức uyên bác của các ông để nghiên cứu xem cộng sản là gì! Các ông phải thấy lũ dân đen mà các ông cho là ngu dại, do cảm tính, đã biết ngay rằng chủ nghĩa cộng sản là con rắn độc, là tên bạo chúa tàn ác chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Đã có bạo chúa nào trong cuộc đời ngự trị của hắn, tiêu diệt được cả trăm triệu người vô tội? Bằng kinh nghiệm và cảm nhận, những kẻ mà các ông cho là kém cỏi và vô học, những thằng dân đen, đã bỏ chạy cộng sản còn nhanh hơn tránh dịch hạch! Biết bao lần người dân đã "bỏ phiếu bằng chân" khi cộng sản tới. Chả lẽ các ông không còn cả một chút tò mò trẻ thơ để hỏi: tại sao người ta phải bỏ chạy như thế? Nếu mắt các ông không mù, tai các ông chưa điếc, sao các ông không nhìn thấy bao cảnh kinh hoàng, không nghe những lời than van kêu khóc xé trời, rạch đất của người dân trong nanh vuốt giặc! Hay các ông không thích nhìn gần, mà chỉ muốn viễn mơ về các khung trời xa lạ, để mở mang trí óc? Nếu thế, các ông phải thấy hễ nơi nào có cái bóng dáng "xã hội chủ nghĩa", là nhân dân nơi ấy tàn mạt, xã hội nơi ấy điêu tàn! Đây là một sự thực hiển nhiên, phơi bày trước mắt loài người lâu gần một thế kỷ; nhưng bọn trí thức theo cộng dường như đã mù, và câm, nên không thấy, và không nói lên được một điều gì!
Danh từ trí thức tôi viết đây, không phải chỉ gồm có những người học cao, văn bằng lớn, mà còn bao gồm cả những ông nhà văn, nhà báo, những người có tên tuổi và địa vị trong xã hội, đã từng là ngọn đuốc hướng dẫn dư luận một thời.
Hồi còn là học trò nhỏ, và ngay khi đã theo học đại học, tôi luôn kính sợ và cảm phục các ông có bằng lớn, các ông viết văn, viết báo, nghĩ rằng mình chỉ nên dựa cột mà nghe, khi các sư, sĩ bàn luận chuyện quốc gia đại sự. Nhưng trong trí óc non nớt của tôi lúc đó, đã thấy có những đám khói mây mờ mịt của sự ngờ, khi thấy ông giáo sư này nói "gà", nhưng ông tiến sĩ nọ lại kêu " vịt ". Các ông trí thức tranh cải nhau rất kịch liệt về nhiều vấn đề họ nêu ra. Nhưng riêng về chuyện tranh cãi nhau giữa người theo và người chống cộng, thì bọn theo cộng đâu cần đến chân lý. Các ông theo cộng thường né tránh lời tố cáo sự không tưởng và tàn độc của cộng sản, bằng cách tố ngược lại những khuyết điểm và sai lầm của phe quốc gia! Kiểu tranh luận cù nhầy này, rút lại chỉ là sự tố cáo các sai lầm vớ vẩn giữa người quốc gia và những anh tập sự làm cán cộng, làm nhạt nhòa đi cái cốt lõi, là sự không tưởng, sự tàn bạo kinh khiếp và nguy hiểm của chủ thuyết Cộng sản.
Bọn trí thức theo cộng, khi bị đuối lý trước những lý luận tố cáo sự bất lương của họ, và trước những sự thực hiển nhiên sờ mó được, về sự sai lầm và tàn độc của cái chủ nghĩa mà họ tôn thờ, vẫn nhơn nhơn, lì lợm, lớn tiếng xưng tụng cộng sản. Họ nghĩ rằng lý của kẻ mạnh bao giờ cũng sẽ là chân lý, và cộng sản là kẻ mạnh, là thế lực đang lên. Không may cho họ, công sản không phải là kẻ mạnh, và lại là thế lực đang đi xuống! Khi cái chủ nghĩa này lăn đùng, đột tử, ngay tại nơi nó phát sinh, những anh theo cộng, nhất là những anh đi hai hàng, lừng chừng đứng giữa, bỗng cảm thấy tẽn tò, vỡ mặt, trước cái xác chết xú uế của chủ nghĩa cộng sản và một núi rác phó sản của nó quá đỗi dơ bẩn, mà từ bao lâu các anh tôn thờ hôn hít. Nhiều anh quay ra cải chầy cải cối: "Chủ nghĩa cộng sản theo lý thuyết, vẫn là chủ nghĩa rất tốt, có sức hấp dẫn. Chỉ khi thực hành mới biết nó không như lý thuyết, và những sự sai lầm của nó, có thể do những người thi hành và áp dụng cái chủ nghĩa ấy gây ra!". Theo cái trí ngu đần của tôi thì trên đời này không hề có cái lý thuyết nào đúng, mà khi đem áp dụng, thì nó thành ra sai! Lại như nói rằng những sai lầm là do người thi hành gây ra, tức là công nhận những tay tổ sư nhà Cộng như Lê Nin, Stalin, Mao, Hồ… đều là kẻ đã áp dụng sai chủ nghĩa cộng sản. Nhưng nếu những tổ sư nhà cộng mà còn không biết áp dụng sao cho đúng chủ nghĩa, thì ai sẽ làm được chuyện đó? Hỏi như thế chỉ để vạch trần cái lý luận gian manh của mấy anh theo cộng tới giờ thứ 25.
Nhưng xin cho tôi trở lại với chủ đề bài viết: điểm qua một số trí thức theo cộng và hậu quả mà họ nhận lãnh.

1 - Trí Thức Nguyễn Hiến Lê.


Học giả Nguyễn Hiến Lê, một người mà tôi rất kính trọng, trong Hồi Ký của ông, cho biết ông đã đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về cộng sản Nga, Trung Hoa, Đông Âu. (Thực ra, người Việt chúng ta đâu có cần phải đọc sách nhiều như thế, để biết cộng sản là cái gì! Và tìm hiểu cộng sản qua sách vở, có khi đưa tới sai lầm gây ra đại họa. Nhưng ông Lê là … học giả mà!). Ông Lê cũng được nhiều bạn di cư vô Saigon kể cho ông nghe chính sách điền địa ở Bắc tàn nhẫn tới mức bỏ tù, giết cả những người kháng chiến, có con ở trong kháng chiến, chỉ vì họ có gần hai hecta đất, và bị liệt vào hang địa chủ bóc lột. Chính những bạn của ông Lê cũng đã giúp kháng chiến, đều có lòng ái quốc, đều là những người tốt, mà không thể sống ở ngoài đó được, phải bỏ nhà cửa, họ hàng, mồ mả tổ tiên, vào Nam với hai bàn tay trắng, sống chen chúc trong những khu lao động, can đảm lập lại cuộc đời. Và ông Lê, sau khi đã nghiên cứu, biết rõ cộng sản như thế nào, ông biện minh cho thái độ thân cộng của ông như sau:
"Tôi tuy ghét, tởm Stalin, Mao Trạch Đông…nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn chế độ tư bản … cộng sản Bắc Việt không thể nào tàn nhẫn như Nga và Trung Hoa được!"
Và ông Lê kết luận bằng cách quơ cả đám trí thức vào phe của ông:
"Đó là tâm lý chung của đa số trí thức Saigon, chứ chẳng của riêng tôi."
(Hồi Ký – Tập 3, trang 20, nhà xuất bản Văn Nghệ)
Ông học "giả" khả kính, đọc thiên kinh vạn quyển, được tận mắt, tận tai nghe các bạn thân ở Bắc thuyết trình cho nghe sự tàn bạo của bắc cộng, mà ông vẫn "tin rằng " và còn võ đoán rằng "đó là tâm lý chung của đa số trí thức Saigon", thì những ông trí thức, học "thiệt" sẽ " tin rằng" và có "tâm lý " ra sao về cộng sản? Sự suy diễn của nhà học giả - và của đa số trí thức Saigon, theo lời ông Lê - cũng rất kỳ lạ, đến mức khó hiểu.
Ghét Mao Trạch Đông, ghê tởm Stalin, nhưng lại tin rằng cộng sản Bắc kỳ không tàn nhẫn như Nga, Tàu! Cộng sản Việt há không phải là một bản sao, một thứ học trò hăm hở theo lời thầy, và tên đày tớ tuyệt đối vâng theo lời chủ? Nếu đã nhận là Nga Tàu tàn bạo bất nhân, thì thằng tay sai là Việt cộng, được các sư tổ cộng sản cầm tay chỉ việc, làm sao mà khác được? Có khi bọn việt cộng còn muốn "vượt chỉ tiêu" của cha, anh nó về mức độ tàn nhẫn và dã man. Kìa, hãy xem anh Pol Pot xứ Chùa Tháp, học trò yêu của Mao đã vượt Mao ra sao về mức độ tàn bạo! Tại sao nhà học giả không dựa vào những điều mắt thấy, tai nghe, những điều sách vở cung cấp cho ông, mà ông lại "tin rằng" một cách vô căn cứ như thế? Chỉ sau khi việt cộng chiếm Miền nam, và thi hành các chính sách tàn bạo, ông Lê mới vỡ mộng. Ông biện luận về sự sai lầm của ông như sau:
"Muốn thấy một chế độ ra sao, thì phải sống dưới chế độ đó dăm năm. Muốn nghe ai phê bình, khen chê gì thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông minh, chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi." (Hồi KÝ – Tập III trang25-26)
Phải sống dăm năm dưới chế độ cộng sản, rồi mới biết nó ra sao! Nếu cứ phải sống dưới chế độ cộng sản dăm năm, để biết nó thế nào, rồi mới quyết định chống nó hay theo nó, thì đây thật là một cuộc thí nghiệm điên rồ và chết người. Khi bị cộng sản xâm chiếm, không nên chống cự, vì mình chỉ biết lờ mờ về cộng sản. Hãy để cho nó cai trị dăm năm, xem sao đã. Điều chắc chắn là khi biết nó ác ôn, thì rất khó vùng vẫy khỏi tay nó, và nếu có thể, thì cái gíá phải trả để thoát cùm gông sẽ đắt như thế nào! Tôi đọc nhưng lời ông Lê viết trong cuốn Hồi Ký III, nhiều lúc bực mình không chịu nổi, về sự biện minh rất kỳ cục của ông. Xin chịu ông Lê có tài biện luận, để xóa sự sai lầm về thái độ thân cộng của ông. Nhưng trong khi ông học giả chỉ " biết lờ mờ " về cộng sản, ông lại ca tụng nó, và thằng dân đen không có đến nửa chữ để nghiên cứu nghiên cò về cộng sản để lận lưng, lại quá biết cộng sản như thế nào, và chạy trối chết để mong thoát tay nó! Còn gì khôi hài hơn không? Những ông trí thức theo cộng trong nước ngày xưa, và ở hải ngoại bây giờ, đều có chung một "đức tính": các ông luôn mang một bộ mặt cao ngạo, nói, viết, những câu ngang dạ, ra điều ta đây là kẻ nhìn xa trông rộng, dè bỉu những người chống cộng là thiển cận, là cực đoan, là chụp mũ bừa bãi! Khi chúng ta đang đổ xương máu để ngăn chặn một kẻ thù hung hiểm, thì các ông viết báo, phát ngôn những lời xỏ xiên, châm chọc, tìm đủ mọi khe hở để lách mũi dao nham hiểm vào lưng chúng ta, và tán dương cộng sản; nhưng các ông không dại gì chạy ra bưng với giặc trong thời chiến, và ngày nay cũng không rời bỏ tiện nghi vật chất và tự do ở nước ngoài để "về xây dựng đất nước" như miệng các ông hô hào và tán tụng cộng sản. Mưu chước của các ông trí thức này là làm thế nào để vẫn được sống yên thân trong sự bảo vệ của chính quyền quốc gia, hoặc an toàn ở ngoại quốc, mà vẫn lập công được với giặc, vẫn được một bọn lủng lẳng đứng giữa, tán tụng là có cao kiến! Tệ hơn nữa, xưa cũng như nay, các ông luôn tranh đấu đãi quyền lợi, đãi tự do nơi cái chính quyền mà lúc nào các ông cũng dài mỏ chê bai.
Ông học giả Nguyễn Hiến Lê viết:
"Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với cộng sản. Tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mỹ. Tôi phục tinh thần hy sinh, có kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp" (Hồi Ký – Tập III, trang 17-18).
Ông học giả phục cộng sản, khinh các chính phủ quốc gia "bù nhìn" nhưng ông khôn lắm, ông cứ sống ở vùng quốc gia để an toàn, yên ổn ngồi soạn, viết hơn trăm tác phẩm.
Có khi nào ông học giả tự hỏi: Nếu ông "may mắn" được sống trong chế độ cộng sản, ông có thể nào xuất bản được 100 tác phẩm? Ông cũng vờ vịt, làm như không biết bọn Bắc cộng là tay sai của Nga, Tàu. Khi những kẻ mà ông "sẵn lòng giúp", dùng thế lực và sự trợ giúp của cộng sản quốc tế, cướp được miền Nam, như ông mong muốn, ông Lê đã trắng mắt, nhìn chúng cướp tiền ông dành dụm trong ngân hàng, do ông khổ công dài lưng nặn óc viết văn; chúng đã chiếm nhà ông ở Long Xuyên; chúng "treo bút" của ông, khiến ông không còn cho được tác phẩm nào ra đời! Ông phải âm thầm xé một số tác phẩm ông dầy công tra cứu, viết lách, thành giấy vụn. Ông cũng kinh hãi, không còn dám nghĩ đến chuyện về thăm cố hương miền Bắc, thăm căn nhà ở ngõ Phất Lộc, tại Hà Nội, nơi có nhà mồ lão quái "Hồ Chủ tịch mà tám chín phần mười người Việt kính mến" (Hồi Ký tập III, tr 20), chỉ vì Miền Bắc nay đã tan hoang, sau khi việt cộng xây dựng "thành công" cái mà chúng gọi là chủ nghĩa xã hội! Nhưng dù sao ông Lê cũng còn lương thiện.
Trong cuốn Hồi Ký – Tập III, ông đã thành thực mô tả cái xã hội xấu xa mà bọn cộng đã áp đặt lên Miền Nam sau năm 1975, và tuy quá muộn màng để hối lỗi, ông đã không tiếc lời mạt sát bọn cướp vô học khi chúng đã phô trương hết sự bịp bợm và tàn ác, sau ngày thành công cướp đoạt chính quyền Miền Nam. Vào lúc bọn việt cộng phải chọn "đổi mới hay là chết", như chúng nói, chúng đã cho in Hồi Ký của ông Lê. Nhưng bản chất lưu manh cố hữu, chúng chỉ cho in nhưng phần ông Lê đã lầm lạc khen chúng, và xóa đi những trang ông chửi cha chúng nó. Việt cộng cũng lập lờ đánh lận con đen, để đồng bào hiểu lầm, là ông học giả ủng hộ chúng, bằng cách đặt tên một con đường nhỏ, đâu đó trong thành Hồ, là đường Nguyễn Hiến Lê. Tôi sở dĩ viết về ông Lê trước tiên, vì ông là một người tôi ngưỡng phục. Ông Lê học giả mà còn hiểu về cộng sản như thế, thì những ông, bà trí thức "học thiệt" khác, sẽ thờ cộng như thế nào! Vâng, chúng ta hãy điểm qua vài ba trí thức khác, đã bán linh hồn cho quỷ, để thấy "mỗi người một vẻ", họ đã góp sức đưa cái xiềng cộng sản và cổ dân ta như thế nào.

Ông Nguyễn Hiến Lê mất ngày 22 tháng 12 năm 1984.



2. - Trí Thức Nguyễn Mạnh Tường.

Nói tới tên ông, nhiều người Việt nghĩ ngay tới việc ông đỗ hai bằng tiến sĩ, Văn và Luật tại Montpellier, Pháp trong một năm, lúc mới 23 tuổi. Ngoài ra, người ta không nhớ ông đã làm được công nghiệp gì tương xứng với tài năng và công lao học tập! Điều đó không có chi lạ. Ông đã theo "cụ Hồ" đi kháng chiến, và kể từ lúc ấy, đời ông kể như đã đi vào ngõ cụt. Đã có quá nhiều sách báo nói về ông Nguyễn Mạnh Tường và những tháng ngày thê thảm của ông và gia đãnh ông, dù bản thân ông chưa phải là trái chanh đã hết nước trong tay Cộng. Nếu không đọc cuốn sách Un Excommunié do chính ông viết, chúng ta khó tương tượng ông "lưỡng khoa tiến sĩ" này lại bị đau nhục dưới tay "vượn người" như thế! Nhưng vì đâu nên nỗi?
Hoàn cảnh lịch sử? Lòng yêu nước, hay sự bịp bợm của cộng sản đã đưa ông vào thảm trạng?
Năm 1936, cậu thanh niên 27 tuổi, với hai bằng tiến sĩ từ mẫu quốc hồi hương, tương lai sáng rỡ như mặt trăng mặt trời. Cậu trở thành giáo sư trường Lycée du Protectorat tức trường Bưởi, rồi cậu mở văn phòng luật sư tại hai biệt thự tại thủ đô Hà Nội. Khi cộng sản cướp chính quyền, cậu hào hứng hiến luôn cả hai biệt thự cho nhà nước. Kháng chiến bùng nổ, cậu không ngại gian lao, xách khăn gói vào Khu Tư, tức Thanh Hóa theo "Bác."
Chiến tranh tạm ngừng năm 1954, nhà trí thức lúc ấy đã mỏi mệt vì những điều tai nghe, mắt thấy về Đảng và "bác", nhưng cổ đã vướng tròng, khó bề thoát ra. Trở về Hà Nội, ông được cộng sản ấn vào tay một lô chức tước "phó", vô danh và…vô thực luôn: Phó chủ tịch Hội Luật Gia Việt Nam, phó Trưởng khoa Đại Học Sư Phạm, thành viên Hội Hữu Nghị Việt-Xô, v…v…
"Đó là các chức vụ hoàn toàn có tính cách lễ nghi, không hiệu năng mà cũng chằng có thực quyền, đó là những chức vụ mà tôi chỉ là kẻ dư thừa."
Năm 1956, có phong trào đãi tự do, dân chủ của các báo Nhân Văn, Giai Phẩm. Báo Nhân Văn đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Tường. Ông vạch trần tính chất phản dân hại nước của cộng sản:
"Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình…"
Dĩ nhiên, ông cũng còn tin cộng sản có thể sửa đổi được, và ông đề nghị những biện pháp sửa đổi! Ngày nay, dù đã có một tay cộng sản gộc, chính tông, là Boris Yelsin bỏ đảng và tuyên bố:
"Cộng Sản không thể sửa đổi ".
Nhiều ông trí thức của ta vẫn tin rằng có thể dùng kiến nghị, thư ngỏ … để thay đổi chính sách của Cộng sản. Cộng sản dĩ nhiên không thèm đếm xỉa gì đến những đề nghị của ông Tường; nhưng lãnh đạo Cộng sản lại dương những con mắt cú vọ quan sát, nhằm "chiếu tướng" ông trí thức. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, ông luật sư, giáo sư, kiêm luôn bao nhiêu chức Phó và Thành viên các hội, đọc một bài diễn văn tại cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc, phân tích những khốc hại đẫm máu của việc Cải Cách Ruộng Đất, và đề ra phương hướng để tránh mắc lại! Ông Trí thức lúc ấy chắc vẫn tin là cộng sản mắc "sai lầm", chứ không phải là chúng chủ tâm và tỉ mỉ hoạch định đủ phương kế để giết người và cướp đất ruộng. Sau bài diễn văn với những đề nghị này, nọ của ông, dây thừng quanh cổ ông được cộng sản xiết chặt lại. Bao nhiêu chức tước vớ vẩn của ông được gỡ sạch. Ông bị đưa ra đấu tố tại trường Đại Học cho học trò ông xỉ vả, mắng mỏ; ông bị ra trước Mặt Trận Tổ Quốc để các "đồng chí" của ông đấu đá. Ông bị các đảng viên đảng Xã Hội, một đảng bù nhìn do cộng sản nặn ra để trang trí cho chế độ, đấu tố ông lần chót. Ông chống trả rất can trường, với lập luận sắc bén của một luật sư có tài. Nhưng rồi ông đau khổ nhận rằng:
"Con cừu thì không thể lý luận với một con chó sói".
Số phận ông đã được Cộng đảng quyết định: Bỏ cho chết đói giữa một sa mạc hận thù không lối thoát. Ông than thở:
"Tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng! Chìm trong vùng cát của sa mạc tuyệt vọng làm cạn khô dòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn chua cay và vị đắng của mật!" Trong ba mươi năm dài ấy, nhà trí thức sống ra sao?
Ông kể lại:
"Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen sa hoa của những người tư sản.
Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tố́i. Khẩu phần cơm rau mỗi ngày một ít đi, và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói."
Trong cơn khốn cùng như thế, gia đình ông Tiến sĩ "may mắn" có được một con gà mái "mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên ". Mỗi ngày con gà cho một trái trứng, và mỗi người trong gia đình thay phiên nhau hưởng. Muốn cho gà đẻ trứng, thì phải cho nó ăn. Khốn nỗi người còn sắp chết đói, lấy đâu gạo, bắp cho gà! Nhà trí thức ‘phát huy sáng kiến’:
"mỗi ngày, vào lúc hoàng hôn, khi chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để người qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó"
Thê thảm không còn gì để nói! Nhưng con gà, dù mắn đẻ, tất cũng không nuôi sống nổi cả gia đãnh của ông tiến sĩ. Ông phải đau khổ, năn nỉ những kẻ có tiền để họ mua những thứ ông có thể vơ vét ở trong nhà: sách vở, quần áo của ông, son phấn, tóc giả của bà, muỗng nĩa trong bếp… Giống hệt tình cảnh của toàn dân miền Nam năm 1975 khi được cộng "giải phóng." Ba mươi năm vật lộn mỏi mòn, chỉ để khỏi chết đói!
Cộng sản đã trả công cho sự nhiệt thành và công lao hạn mã của ông bằng cái đói và nhục. Nhiệt thành, say sưa, vì khi Cộng mới nổi lên, ông đã đem tất cả nhà cửa hiến dâng cho đảng. Công lao hãn mã, vì ông đã lặn lội sang tận thủ đô Bruxelles của Bỉ, năm 1956, đem tài hùng biện, chứng minh với Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ thế giới, là Bắc cộng có "chính nghĩa" khi dùng súng đạn để "giải phóng miền Nam " Nhưng xem tư cách và sự phản ứng can trường của ông trong suốt 30 năm bị cộng mưu dìm cho chết, chúng ta ngậm ngùi thương ông hơn là oán giận. Ông đã lạc đường vào lịch sử và bị vây bọc trong hoàn cảnh khó khăn. Không khuất phục được ông, bọn cộng vô học ghen, tức, đầy đọa và hạ nhục ông.
So sánh với những anh "trí thức" hải ngọai ngày nay, từng kinh hoàng bỏ chạy khi cộng sản tới, lại được chứng kiến sự tan rã tận gốc của cái chủ thuyết giết người tàn độc, mà vẫn xun xoe đưa đầu cho cộng sai khiến, chúng ta phải kinh ngạc về sự "khả úy" của các "trí thức" hậu sinh. Ông Nguyễn Mạnh Tường có lẽ đã trả được mối thù với bọn việt cộng bằng cách mô tả sự tàn độc của chúng trong hai cuốn Hồi Ký mà ông để lại cho đời.
Ông đã thảnh thơi từ giã cuộc đời ngày 13 tháng 6 năm 1997.



3. Trí thức Dương Quỳnh Hoa.

Bà Dương Quỳnh Hoa sinh trưởng trong tầng lớp thượng lưu của xã hội Việt Nam. Bà theo học y khoa tại Saigon rồi sang Pháp năm 1948 học tiếp và đỗ bác sĩ năm 1953. Ăn phải bả Cộng sản, bà liên lạc với Cộng sản Pháp, gia nhập cộng đảng vào cuối thập niên 1950 và hoạt động cho Cộng trong thời gian ở Pháp từ 1948 đến 1954. Sau 1954, bà về Saigon nằm vùng và do thám cho cộng. Năm 1960, được bọn Bắc cộng giựt dây, bọn theo cộng miền Nam thành lập Mặt Trận Giải Phóng. Bà Hoa là một sáng lập viên của cái Mặt Trận này. Năm 1968, sau vụ đại bại của cộng quân, mụ cùng chồng trốn ra bưng với Việt cộng, và được cho làm Bộ Trưởng Y Tế. Trong thời gian ở trong bưng, đứa con trai nhỏ của mụ đã chết vì bệnh sưng màng não. Chồng bà là Huỳnh Văn Nghị được cộng dụ dỗ cho nhập Đảng; nhưng ông Nghị nhận rõ bộ mặt thật của bọn giải phóng, nên tìm cách khước từ "vinh dự" đó. Năm 1975, sau khi chiếm được Miền Nam, bọn Bắc Cộng ra tay xóa sổ cái Mặt Trận Giải Phóng.
Những anh chị trót bán linh hồn cho quỷ trong Mặt Trận, như các anh Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng… và bọn lủng lẳng đứng giữa như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung… đều vỡ mặt, tẽn tò như một lũ con nít bị lừa không được ăn kẹo! Chính bà Hoa sau này đã thú nhận việc đi theo Cộng là một ảo tưởng chính trị trong đời bà. Ngày 17 tháng 10 năm 1996, khi được tờ báo Far Eastern Economic Review phỏng vấn:
" Quel est l’évenement le plus marquant pendant les 50 années passées?"
Bà trả lời:
"L’effondement du mur de Berlin qui a mis un term à la "grande illusion"
dịch tạm:
Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua?
Bà DQH:
Đó là sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một "ảo tưởng lớn"
Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt nam, bà nói:
"Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã hết ".(I have been a communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communist, and it is a failure - mismanagement, corruption, repression. My ideals are gone")
Cuối thập niên 1970, bà nói với Nguyễn Hữu Thọ:
"Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn, là những món đồ trang sức rẻ tiền. Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ."
Khi được phỏng vấn về bọn lãnh đạo Việt cộng, bà lạnh lùng trả lời:
"Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản".
Trong những câu bà Hoa nói trên, chúng ta nên chú ý đến câu
"Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản…"
Đó chính là một lời thú nhận là: dù học hành nhiều như bà, được sống trong một nước tự do như nước Pháp, có thừa phương tiện tìm hiểu, nghiên cứu, bà đã không biết gì về chủ nghĩa cộng sản!
Ngày 25/2/2006, người nữ cán bộ cộng sản đã góp công không nhỏ cho cộng sản đặt cái ách khốn cùng trên đầu đồng bào của bà, lặng lẽ bị các oan hồn chết vì giặc cộng, đưa về trước Diêm Vương để nghe phán xét tội lỗi. Cái bạo quyền bà đã hy sinh hết tuổi thanh xuân và tài năng để dựng nên nó, không có được một lời nói về bà. Mang "ảo tưởng ", tự hiến mình làm "bù nhìn, đồ trang sức rẻ tiền", "không biết sự thật về cộng sản mà vẫn theo chúng" thì kết quả đương nhiên chỉ có như thế.

Các vị trí thức tiền bối như Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hiến Lê, Dương Quỳnh Hoa, do hoàn cảnh lịch sử hoặc do sai lầm nhất thời, đã có lúc theo cộng hay thân cộng. Nhưng khi nhận rõ bộ mặt phản dân hại nước của cộng sản, họ đã có phản ứng quyết liệt. Trí thức Nguyễn Mạnh Tường đã dõng dạc tuyên bố:
"Tôi không hề tham gia mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Người trí thức phải đứng về phía nhân dân, chứ không đứng về phía chinh quyền."
Ông cũng đã can đảm nhận chịu 30 năm đọa đầy thê thảm chứ không đầu hàng cộng. Khi thoát khỏi sự kiềm chế của Cộng sản, ông đã viết hai cuốn sách:
(1) Un Excommunié – http://
www.ethongluan.org
(2) Une Voix Dans La Nuit
http://www.viet.rfi.fr/viêtnam/20110...-de-tri-thuc-v, bày tỏ lập trường của trí thức, và mô tả sự xấu xa tàn độc của Cộng sản. Cuốn Une Voix Dans La Nuit, (chưa xuất bản, được bà Thụy Khuê trích dẫn và bình luận trong Website của RFI) viết về về sự thiết lập chế độ ác ôn cộng sản ở Việt Nam. Ông viết xong vào năm 1993, lúc đã 85 tuổi, chứng tỏ ông trí thức vẫn nặng lòng vì đất nước. Bà Dương Quỳnh Hoa cũng dứt khoát vứt bỏ mọi ưu tiên mà chế độ dành cho bà, để quay về vị trí của người trí thức.
Những trí thức nói trên, nhất là tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, vẫn còn lưu lại trong lòng chúng ta sự ngậm ngùi thương tiếc. Còn như cái loại trí thức của nợ dưới đây, và những loại trí thức hải ngoại ngày nay như Nguyễn Hữu Liêm, Trần Chung Ngọc… thì chỉ để lại lòng khinh ghét vì sự ngu xuẩn và sự ham danh lợi của họ.



4. Trí thức Ngô Bá Thành.

Bà này tên thật là Phạm Thị Thanh Vân, con của ông Bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến. Sinh năm 1931 tại Hà Tĩnh. Mới 18 tuổi đã lấy chồng là ông Ngô Bá Thành. Hai vợ chồng sau đó qua Pháp du học. Bà học luật, ông học thú y. Năm 1957 bà đỗ tiến sĩ luật. Năm 1963 mụ về nước và bắt đầu những ngày quậy phá đất nước. Năm 1970, mụ tự phong là "Chủ Tịch Ủy Ban Phụ Nữ Đòi Quyền Sống", cái tên nghe khá buồn cười, báo chí thời đó diễu là "phụ nữ đòi quyền sướng". Trong bối cảnh đất nước tan hoang vì đảo chánh, tranh giành quyền lực, sư cộng sản Trí Quang đã tổ chức lễ ra mắt cái Quỷ ban này tại chùa Ấn Quang, cho thấy rõ mạt cưa, mướp đắng dập dìu với nhau. Vào thời gian đó, nếu có ai nói rằng mụ Thành và sư hổ mang Trí Quang là cộng sản, ắt sẽ có nhiều ông bà trí thức theo cộng tru tréo kêu oan dùm họ, và xỉ vả kẻ tố cáo đó là "chống cộng cực đoan, chụp mũ bừa bãi. " Trong suốt thời kỳ của của nền đệ nhị Công Hòa, mụ Bá Thành đã quậy phá, biểu tình liên tục. Huỳnh Tấn Mẫm, một tên cộng sản nằm vùng, viết về "công lao" của mụ đối với bọn cộng nằm vùng như sau:
"… Một lần tổng hội sinh viên của chúng tôi bị bao vây chặt đang lúc họp bàn, triển khai phong trào đốt xe Mỹ ở 207 Hồng Bàng, cảnh sát vây kín chung quanh, quay giây kẽm gai vòng trong vòng ngoài. Giữa lúc chúng tôi đang nát óc nghĩ cách thoát khỏi, thì ai đó reo lên: chị Thành đến! Qua hàng rào kẽm gai, chúng tôi thấy chị dẫn theo hàng ngàn (?) người, từ học sinh, sinh viên, các ba má phong trào, đến tăng ni phật tử. Chị lớn tiếng tranh luận với cảnh sát về pháp luật, hiến pháp, nhưng chúng vẫn không hạ súng. Thế là chị ra hiệu cho mọi người ào lên giật súng, dùi cui, kéo dây kẽm gai… Cảnh sát chạy mất, chúng tôi được giải thoát! "
Bỏ đi những chuyện hoa lá cành, mô tả láo khoét của tên việt cộng Huỳnh Tấn Mẫm, chúng ta còn thấy được vài sự thực: Một trí thức có bằng tiến sĩ luật, đi "trâu đánh" đãi quyền sống, mà hành động như một con nặc nô đi đánh ghen, và sự quá mềm mỏng dễ dãi của những người cảnh sát có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự. Chúng ta thua giặc vì chúng ta cư xử như một con người, trong lúc bọn cộng khát máu lồng lộn, điên cuồng cắn xé như loài thú! Nay những ông trí thức co gìo chạy trước khi nếm mùi nanh vuốt của cộng sản, vẫn như đi trên mây. Các ông chửi người tị nạn, kẻ mất cha, người mất chồng, mất con trong trại tù, trên đường vượt biển là bọn chống cộng cực đoan, hạ cấp, các ông nghĩ sao về con mụ trí thức có bằng tiến sĩ luật đã cư xử điên cuồng đến mức khó tưởng tượng như sau:
"… Có lần bị bắt giam ở khám Chí Hòa, bị gọi lên lấy khẩu cung, vừa bước vào phòng, bà [NBT] đã làm cả giám thị lẫn cảnh sát mất hồn khi rút chiếc guốc dưới chân ra đập nát tấm hình Nguyễn Văn Thiệu đang treo trên tường!"
Tôi cho rằng đây chỉ là chuyện phét lác của mấy anh theo cộng, bịa chuyện đánh bóng một cách ngu xuẩn hành động nặc nô của một bà tiến sĩ luật, lòng dạ sôi sục vì danh lợi, đầu óc không còn suy nghĩ. Chuyện giản dị dễ thấy, là bức hình tổng thống trong các công sở, thường được treo trên cao, ngoài tầm tay, nhất là tầm với của một phụ nữ. Vả lại, một phạm nhân bị dẫn giải đi hỏi cung, đột nhiên rút guốc, rút giầy lên cầm tay, tất phải khiến cho người cảnh sát áp giải ra tay đề phòng, thay vì bị "hết hồn" như "sáng tác" của các văn nô chuyên nghề mạ kền, đánh bóng. Nhưng nếu chuyện sảy ra đúng như các "đồng chí" mô tả, thì các ngài trí thức hải ngoại đang tấp tểnh lập công với Đảng, chuyên chửi người tị nạn là cực đoan, hạ cấp, thấy hành động của bà tiến sĩ luật là…đúng luật, là không hạ cấp hay sao là không cực đoan hay sao. Còn như cái đám tập hợp theo bà Thành, được bà gọi là "Phụ Nữ Đòi Quyền Sống ", là đãi cái chi vậy? Trí óc lươn lẹo, nên lời lẽ ấp úng! Phụ nữ Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa không có quyền sống hay sao? Hay là họ bị chèn ép, bị đàn áp, kỳ thị, bị đem ra làm đồ buôn bán như ngày nay. Không có đâu. Nhưng chẳng lẽ mụ Thành lại nói toạc móng heo ra cái tên thực của cái đám người theo mụ là "Phụ Nữ Đòi Quyền Theo Cộng". Đúng! Mụ và cả cái đám theo mụ chỉ muốn đãi quyền theo "Bác" Nay chuyện này đã trần truồng dưới ánh sáng chói lọi của sự thực, không còn thầy trí thức theo Cộng nào kêu là "chụp mũ" cho bà Thành nữa nhé! Khi Cộng chiếm đoạt được miền Nam, con hồ ly cái này đã hiện nguyên hình là con chồn hôi cộng sản. Tuy nhiên, miếng xương mà cộng thẩy cho mụ để trả công bao năm phá thối VNCH cũng không lớn.
Được Cộng cho vào ngồi trong cái đám chỉ biết gật và vỗ tay, có tên là "cuốc hội", trong ba bốn khóa, mụ đã "đòi quyền sống" cho người phụ nữ như thế nào? Phụ nữ ta, từ ngày có mụ Thành làm đại diện, đã đãi được cái "quyền" đứng khắp nẻo đường, vẫy gọi nam giới, bán món hàng trời cho. Không phải chỉ ở Saigon, mà còn khắp các đô thị trong nước. Như ở bến Ninh Kiều - Cần Thơ chẳng hạn.
"Chiều chiều dạo bến Ninh Kiều.
Dưới chân tượng bác, đĩ nhiều hơn dân "
Mụ cũng "đãi" cho phụ nữ ta được "quyền" thoát y cho bọn ngoại nhân tàn tật, già nua của Đại Hàn, Tàu, M. Lai… sờ nắn, ngắm nhìn trước khi thẩy ra mấy ngàn đô, mua như súc vật, đem về làm nô lệ tình dục.
Thảm cảnh và máu lệ ngút trời của phụ nữ như thế, nhưng chớ bao giờ thấy con mụ "đãi quyền sống" này há miệng "trâu đánh" đãi hỏi cái chi, dù chỉ đãi theo pháp luật của cộng đảng! Đáng lý, mụ Thành nên rút guốc đập vào mặt hình lão già râu đang ngồi trên đầu mụ. Nhưng Mụ không còn bộ não để suy xét, và mụ còn bận rộn chõ mõm, gân cổ lên, làm các chuyện ruồi bu khác. Một văn nô "luật sư" cộng, tên là Đỗ Minh Ánh, đã tán tụng "người phụ nữ viết nên huyền thoại " của hắn ta như sau:
"Là một luật sư đã từng được đào tạo ở Mỹ, bà khẳng định Đạo Luật Nhân quyền ở Việt Nam của Mỹ không có giá trị pháp lý. Bà cũng đã tỏ rõ quan điểm phản đối gay gắt một tiểu bang ở Mỹ đa cho phép treo cờ ba sọc "
Xin bỏ qua cách viết văn "sáng sủa" của ông "luật sư " khi ông viết "Đạo luật nhân quyền ‘ở‘ Việt Nam của Mỹ ", tôi xin có ý kiến về cái mà mụ "luật sư được đào tạo ở Mỹ " kêu là "giá trị pháp lý" của đạo luật nhân quyền Mỹ. Theo sự ngu dốt về luật pháp của tôi, thì bất cứ đạo luật nào đã được Quốc Hội Mỹ phê chuẩn, được tổng thống Mỹ ký ban hành, nó đều có giá trị pháp lý đối với dân Mỹ. Mỹ nó thấy Việt cộng không có nhân quyền. Nó làm luật, liệt xứ Việt cộng vào danh sách các nước không có nhân quyền, theo tiêu chuẩn nhân quyền của nó. Việc đếch gì đến những anh khác, trong các nước khác. Nếu muốn diễn tuồng tận trung với Đảng, mụ Thành và đám chuyên viên gật trong cái "cuốc hội" ở Ba Đình nên hè nhau viết một đạo luật nhân quyền Việt Nam "ở" Mỹ, rồi đem ra biểu quyết với nhau cho Mỹ nó sợ. Cam đoan chẳng có ma nào nói gì đến cái "giá trị pháp lý" của mụ đâu. Những cái "khẳng định, phản đối gay gắt..." của mụ Thành chỉ " khẳng định " một điều: mụ đã đội lốt nhiều thứ để "đãi quyền", để "trâu đánh", nhưng trong xương tủy, mụ là một kẻ "mót" công danh, mù quáng theo cộng sản ngay từ ngày mụ vờ vịt giả hình "Đòi quyền sướng ".
Ngày 3 tháng 2 năm 2004, "chị Thành" đã bị quỷ vương thình lình tới nhà bắt mụ đi đền tội ác.

Bài viết của tôi về các ông bà trí thức theo cộng, cứ đà này, có thể kéo dài thành một cuốn sách dầy. Không thể đăng báo Nội San được. Thôi đành ngưng lại, dù có vì thế mà không thể nhắc tới bao nhiêu tên tai to mặt lớn khác, cũng cuồng nhiệt theo Cộng và cũng đã phải cười đau khóc hận khi Cộng chiếm trọn quyền thống trị. Như trí thức Châu Tâm Luân, tiến sĩ kinh tế tại đại học Illinois, khi về nước đã ngang nhiên ca tụng cộng trong khi giảng dậy và đã ôm đầu máu chạy trốn đi một xứ có ít người tị nạn, để khỏi bị chỉ mặt, đặt tên. Như Trí thức "bạc đầu đen óc" Phó Bá Long, " lòng chua sót, dạ bồi hồi", xum xoe ngâm thơ con cóc bên Võ Văn Kiệt, và cúi xin Kiệt "ân xá" cho người Việt tị nạn, rồi cũng lặng lẽ chuồn đi một nơi không có cộng sản để chết già! Như trí thức Trương Như Tảng, vốn tin rằng Cộng sản cũng có luật pháp, nên đã ăn cái bả "Bộ Trưởng Tư Pháp Việt cộng.
Ông Đoàn Thanh Liêm viết rằng: truóc khi ra Bắc vào năm 1976, để nghe cộng sản Hà Nội nói về việc lập chính phủ thống nhất, Trương Như Tảng còn "hồ hởi" trấn an "nhóm Luật gia chúng tôi":
"Các anh chị em Luật gia hiện cộng tác với chúng tôi trong Bộ Tư Pháp này đều là ‘ vốn quý của đất nước’; do vậy mà Nhà Nước Cách Mạng sẽ tìm cách sử dụng đúng mức cái nguồn vốn này. Tôi xin đoan chắc với quý anh chị em là bây giờ ta có hòa bình rồi, thì trong chánh phủ mới sẽ có Bộ Tư Pháp để phụ trách quản lý toàn bộ khối công tác thuộc lãnh vực pháp lý …"
Chết đến đít vẫn còn ảo tưởng! Bộ Tư Pháp chẳng thấy đâu, mà ông "bộ trưởng" lại trở thành thuyền nhân "liều mình xuống ghe vượt thoát khỏi Việt nam" để sống sót và viết hồi Ký "Mémoires d’un Vietcong". Và còn vô số những trí thức nằm vùng khác, như Chân Tín, Trần Ngọc Liễng, Lý Qúy Chung, Lý Chánh Trung, Thích Nhất Hạnh, Vũ Hạnh… một đời dối trá, tôn vinh cái ác, vu cáo điều thiện, đã được cộng sản quăng cho cái xương thừa để gặm chưa? Mong rằng sau này, ai đó sẽ sẽ tập hợp các tên phản quốc này trong một cuốn sách để lưu xú vạn niên cho hậu thế.
Ngày nay, tại hải ngoại, cũng vì hai chữ Lợi, Danh, và để làm vui lòng chủ mới cộng sản, nhiều ông trí thức đã chôn sâu cái căn cước Tị Nạn Cộng Sản, tự gọi mình chỉ là "người sinh sống ở nước ngoài," ôm ấp ảo tưởng: khoe khoang bằng cấp, chức vụ cũ, van vái cộng sản chiếu cố, ban ơn hoặc khen thưởng! Khi ông giáo sư, tiến sĩ triết, khua chiêng đánh trống, để cộng sản chú ý tới ông, hy vọng nó ban cho ông một chút lợi lộc gì, ấy là ông đã quên béng một cái triết lý rẻ tiền này: Bất cứ bọn cướp nào, sau một vụ cướp bóc thành công, chỉ chia phần cho đồng bọn. Trong nội bộ với nhau, chúng còn tranh giành quyết liệt, đãi được phần béo bở. Những anh không góp công trong vụ ăn cướp, hoặc tệ hơn, đã là kỳ đà cản mũi chúng, nay thấy chúng có ăn, lại vác mặt dầy đến xin, thì chỉ có thể được bãi nước bọt vào mặt! Triết lý ba xu ấy mà không biết thì… còn triết được cái gì. Nếu bà Dương Quỳnh Hoa và bao nhiêu trí thức một đời theo cộng, đã chấm dứt cái "grande illusion," thì các ông trí thức thân cộng ở hải ngoại lại đang ve vuốt cái "great delusion ", là sẽ được "trên" trông xuống, ban ra một ơn huệ, cho các ông tham gia bữa tiệc "đổi mới" làm bằng máu xương dân Việt. Xin các ông hãy đối mặt với sự thực, tự hỏi mình vài câu đơn giản.
"Vì sao các ông bà phải trốn chạy đi sinh sống ở nước ngoài?
Tại sao cộng sản “tốt” như thế mà các ông không dám về nước để hòa hợp với chúng?"
Các ông bà trí thức theo cộng ở hải ngoại cũng thường dè bỉu người tị nạn là "chống cộng ấu trĩ, thù dai, là cuồng tín, là cực đoan, là ưa chụp nón cối" lên đầu các ông.
Vâng, chúng tôi quả có chống cộng một cách "ấu trĩ " theo nhận định của quí vị. Bởi vì cứ ngửi thấy hơi cộng sản, là chúng tôi thấy ngay mùi máu tanh nồng của chết chóc, của tang thương; cho nên chúng tôi phải bằng mọi cách trừ khử cái mùi tử khí đó, bất kể là phương tiện ấy ấu trĩ hay không. Còn nói chúng tôi "cực đoan" và "cuồng tín" thì tội cho chúng tôi biết bao! Chúng tôi tưởng những kẻ mà quý vị đang dùng bao phương kế lươn lẹo để xin ban ân, còn cực đoan và cuồng tín hơn người tị nạn chúng tôi cả ngàn lần! Cáo Hồ là một ác quỷ, phạm đủ các tội ác kinh khiếp, nhưng đã được bọn Cộng tôn lên hàng thần thánh. Muốn thử sự cuồng tín của Việt cộng, các ông hãy nói ra, dù chỉ một chút sự thật về già Hồ, xem bọn cộng phản ứng ra sao? Xin hỏi:
Ai đã bao năm mê muội, cuồng tín với cái "tôn giáo" mới nhập từ Nga, Tầu, đến mức quyết tâm diệt trừ mọi tôn giáo khác, để độc quyền thờ cúng Mac- Lê?
Ai đã cực đoan đến nỗi đào mổ cuốc mả, bắn thủng mắt những tấm hình trên mộ bia nghĩa trang quân đội. Ai đã áp lực đục phá những tấm bia tị nạn trên các đảo vùng Đông Nam Á.
Ai đã chủ trương thà giết lầm người còn hơn bỏ sót. Ai đã dùng "lý lịch ba đời" để gạt bỏ các con em miền Nam trong việc học hành, sinh sống.
Ai đã bỏ tù, giết chóc không gớm tay, ngay các đồng chí của mình, chỉ vì một ý kiến bất đồng. Những cái đó chắc không phải là cực đoan và cuồng tín.
Kể sao cho xiết. Còn như cho là chúng tôi ưa "chụp nón cối", thì chính chúng tôi có quyền phàn nàn về cái trí nhớ quá đoản kỳ của quý ông bà.
Xin hãy ngoảnh nhìn quá khứ thật gần.
Những tên như Huỳnh Tấn Mẫm, mụ Ngô Bá Thành, Thích Trí Quang, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Trịnh Công Sơn… và bao nhiêu tên theo cộng, núp dưới đủ thứ chiêu bài tốt đẹp, cũng quỷ quyệt né tránh cái tội ác cộng sản nằm vùng, kêu oan, là "bị chụp mũ " thân cộng hay theo cộng. Các tên đó trước đây la to bao nhiêu để phản đối "bị chụp mũ", thì khi cộng chiếm miền Nam, họ cũng gào lớn như thế để " báo công" với cộng. Trong quá khứ, chúng tôi đã điểm đúng mặt "lũ ong tay áo, lũ khỉ dòm nhà ", thì ngày nay bọn ăn cháo đá bát, bọn tị nạn giả hình, cũng sẽ khó náu hình trong bóng tối để âm mưu chuyện ôm đít cộng.
Tổng thống George W. Bush, khi chủ tọa lễ khánh thành Tượng Đài Nạn Nhân Cộng Sản Thế giới ngày 12 tháng 6 năm 2007, đã phát biểu:
"… Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản được những thế hệ hômqua, hôm nay, và mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận gốc rễ, vì chế độ cộng sản là tàn bạo và phi nhân."
100 triệu con người đã bỏ mạng vì cộng sản.
Dân Việt ta đã "đóng góp" vào núi xương sông máu này bao nhiêu triệu mạng. Xin các ngài trí thức thân cộng đừng kêu gọi chúng tôi đóng góp thêm nữa. Chúng tôi lúc nào cũng muốn đội các ngài lên đầu, xưng tụng các ngài là sư, là sĩ, để nghe lời chỉ giáo; nhưng xin tha mạng, đừng mang ảo tưởng dụ chúng tôi quên tội ác của Cộng!
Ai tai! viết mấy cho vừa!

BXC