CHÀO MẸ !
VŨ THẤT
Tôi không khó khăn nhận ra mẹ
khi bà vừa bước ra khỏi trạm kiểm soát an ninh phi trường. Một tay kéo chiếc va
ly nhỏ, một vai mang chiếc xách tay, mẹ thong dong như trôi theo dòng người.
Dáng mẹ trông mảnh mai, thanh nhã, linh hoạt dù rằng đã ở cái tuổi tám mươi.
Tóc đã bạc phơ. Chiếc áo sơ mi màu trắng như giúp khuôn mặt mẹ tươi tắn hơn
ngày tôi gặp mười lăm năm trước. Mẹ đưa mắt tìm kiếm. Tôi giơ tay vẫy. Bà mừng
rỡ vẫy lại. Tôi cười khi mẹ đến gần: “Chào mẹ!” Mẹ buông rơi chiếc va ly, mở
vòng tay ôm ghì lấy tôi. Tôi cũng ôm xiết mẹ, mà sao không cảm nhận chút nồng
ấm nào. Từ khi chưa đầy một tuổi, ba mẹ tôi đã đành đoạn bỏ rơi tôi. Thôi nôi,
ngoại cúng kiến van vái. Lên ba, ông ngoại mất. Lên năm, bà ngoại lìa đời. Cậu
mợ tôi thừa hưởng gia sản nên… thừa hưởng luôn việc săn sóc dưỡng dục tôi. Vì
vậy mà khi khôn lớn, tôi hầu như quên hẳn mình còn đủ cha, đủ mẹ.
Tôi lái xe vào trung tâm thủ
đô, chạy vòng vòng cho mẹ xem phố xá, rồi quẹo sang đường Constitution. Tôi chỉ
mẹ xem đài tưởng niệm Washington, Tòa Bạch ốc và hứa một ngày khác sẽ đưa mẹ
vào xem tận bên trong. Mẹ nói mẹ muốn ưu tiên gặp em của mẹ, còn việc tham quan
chừng nào cũng được. Tôi cho mẹ biết cậu mợ đang chu du Âu châu, hai tuần nữa
mới về. Sợ mẹ hiểu lầm, tôi giải bày: “Cậu mợ ghi tên đi chơi trước ngày mẹ báo
tin qua đây nên không hủy bỏ được. Con đã xin nghỉ một tháng. Trong tháng đó,
mình sẽ đi một vòng sơ khởi nước Mỹ. Mẹ sẽ gặp em trai mẹ vào tuần lễ thứ
ba...” Tôi ngưng nói khi thấy mẹ xoay mặt về khung cửa kính. Nhân lúc xe qua
cầu, tôi cất cao giọng: “Đây là sông Potomac. Đi xuôi dòng, sẽ trông thấy một
phần hình ảnh rất đẹp của thủ đô. Nhà của con phía thượng dòng, cách đây độ nửa
giờ.” Mẹ vẫn nhìn quang cảnh thành phố, chỉ có tiếng “thế à” hờ hững vang lên.
Tôi nhìn đồng hồ và mừng là đã
tới giờ cơm chiều. Tôi nói nhỏ nhẹ: “Suốt ngày đêm trên máy bay, chắc mẹ thèm
cơm. Khu thương mại Eden của người Việt vùng này có một nhà hàng nấu món canh
chua cá bông lau, cá kho tộ ngon lắm!” Bà nói giọng mệt mỏi: “Nói chung thì mẹ
thèm một tô phở.” Một cái gì nghẹn ngào đột ngột trào dâng trong tôi. Hai mươi
năm tập kết ra Bắc, mẹ đã bị đồng hóa. Không chỉ thay đổi cả giọng nói, ngôn
từ, mà lơ là luôn cả món ăn ưa thích của miền Nam. Tôi ngờ rằng bà không phải
là người sinh ra tôi…
Tôi đưa mẹ vào tiệm Phở Xe Lửa
và gọi tô đặc biệt. Mẹ khen ngon hơn phở ở Sài Gòn. “Nhưng vẫn thua phở Hà
Nội”, tôi nhanh nhẩu tiếp lời. Mắt mẹ thoáng chút ngạc nhiên, rồi lặng lẽ quan
sát xung quanh… Tôi cũng quan sát bà. Tôi giống mẹ lạ lùng. Chắc chắn nhìn
chúng tôi, không ai nghĩ khác hơn là mẹ và con. Mà giống mẹ để làm gì khi tâm
hồn chúng tôi không có chút gì hòa điệu… Tôi nhấn một chiếc nút trên trần khi
xe sắp quẹo vào driveway và lái thẳng vào garage. Trong khi tôi mở cóp nhấc
xuống các hành lý, mẹ đi ra phía trước đường. Tôi bước đến bên mẹ khi bà ngắm
nghía ngôi nhà, trầm trồ: “Nhà của con đây hả? To và đẹp quá, ngoài tưởng tượng
của mẹ. Quang cảnh cũng thật sáng sủa tươi mát.” Tôi cười buồn: “Chúng con mới
mua năm ngoái và chắc cũng sắp bán…” Giọng mẹ thảng thốt: “Tại sao thế?” Tôi
nắm cánh tay mẹ dìu đi: “Mẹ vào nhà nghỉ ngơi. Từ từ rồi mẹ sẽ biết...”
Tôi bấm số liên hợp và mở
toang cánh cửa. Mẹ bước vào, đứng sững người trên tấm thảm nhỏ mang chữ
welcome. Dường như mẹ không tin những gì mẹ đang thấy. Mẹ ngập ngừng bước đi,
mắt dừng lại từng vật trang trí ở phòng khách, phòng gia đình, miệng lẩm bẩm
lời tán thưởng. Khi mẹ hướng về khu bếp, tôi biết mẹ sẽ ở đây lâu hơn nên lặng
lẽ trở ra ngoài mang hành lý vào nhà. Khóa cửa xong, tôi đảo mắt tìm mẹ. Bà
đang ở trong phòng đọc sách, đứng lặng yên trước bàn thờ. Mẹ không nhìn các
tượng Phật rất đẹp tôi thỉnh tận Thái Lan. Mắt mẹ đang đăm đăm nhìn di ảnh của
Huy. Anh mặc áo tiểu lễ hải quân với dây biểu chương, trên một nắp túi là chiếc
huy hiệu hạm trưởng và bảng tên Lê Quang Huy. Bên kia là hai hàng huy chương
nhiều sắc màu khác biệt. Và Huy đang tươi cười… Mẹ nói bằng giọng ngạc nhiên mà
bình thản: “Sao con không nói gì với mẹ?” Tôi lắc đầu: “Để làm gì? Mẹ có biết
gì về ảnh đâu và chắc cũng không ưa ảnh!”
Mười lăm năm trước, khi về
chịu tang ba tôi, tôi đã từ chối trả lời mọi câu hỏi của mẹ. Tôi muốn cho thấy
khi bà đã có can đảm bỏ rơi tôi thì tôi cũng có can đảm coi như đời tôi không
dính dáng gì tới bà. Mãi gần đây, khi mẹ ngỏ ý muốn qua thăm chúng tôi, Huy khuyên
tôi nhận lời, dù gì bà cũng là người sinh thành ra mình. Tôi nghe lời khuyên,
nhưng chỉ một mình tiếp đón mẹ. Huy chết bất thần vì cơn đột quỵ. Mẹ nhìn khắp
bàn thờ, rồi quay phắt sang tôi: “Sao không thấy con thờ ba con?” “Thờ ba? Tại
sao con phải thờ ba?” Mặc dù đã tự nhủ, tôi vẫn không dằn được cơn bực tức bùng
vỡ. Mẹ quay đi, lặng lẽ thắp nén nhang cắm vào lư hương, nhìn Phật Bà, nhìn
Huy, rồi thở dài, lặng lẽ bước lên thang lầu. Tôi đã từng nghe nhiều tiếng thở
dài tương tự của mẹ trong suốt thời gian mười ngày về dự đám táng ba tôi. Tôi
đã cho bà thấy tôi không chỉ dửng dưng với người chết mà còn lạnh lùng với cả
người còn sống. Liệu có ai cư xử khác tôi khi suốt quãng đời dài gần bốn mươi
năm mà chỉ vài lần được nghe nhắc đến mẹ cha mình bằng lối bông đùa.
Năm tôi lên mười bốn, sau trận
Mậu Thân khói lửa khắp Chợ Lớn Sài Gòn, một bữa, lần đầu tôi nghe cậu nhắc tới
ba mẹ. Trong bộ đồ trận rằn ri mang lon trung tá, cậu ra vẻ trịnh trọng: “Nè,
Phượng! Con có biết là suýt nữa con đã có dịp trùng phùng ba mẹ con không?”
Trong khi tôi tò mò lắng nghe, cậu tỉnh bơ tiếp: “Nhưng vì cậu thấy họ không
xứng đáng làm bậc cha mẹ, cậu đã đuổi họ về mật khu rồi!” Tôi thường cười với
mỗi cợt đùa của cậu; nhưng lần đó, tôi mím môi, muốn khóc. Năm hai mươi mốt tuổi,
khi tôi đưa Huy về nhà giới thiệu nhân buổi tiệc mừng cậu thăng cấp tướng, cậu
nói nhỏ vào tai tôi: “Chà chà! Như vầy là kẹt cậu rồi! Con mà chọn tên hải quân
đó làm chồng thì cậu khốn khổ với chị cậu. Tuy nhiên, nếu con… năn nỉ cậu, cậu
cũng liều cho con làm… bà thiếu tá.” Tôi vẫn cười thầm về chuyện này vì, bốn
tháng sau, sự thể đảo ngược. Chính cậu lại là người phải “năn nỉ” tôi để cả gia
đình được lên tàu của Huy rời khỏi Việt Nam.
Chúng tôi thành hôn ở Mỹ. Huy
trở lại đại học, tôi đi làm ngày đêm. Rồi lần lượt hai đứa con ra đời. Huy ra
trường đi làm. Tôi vào đại học. Vất vả mà hạnh phúc. Tôi quá bận rộn để nhớ về
quê cha đất tổ; cho tới mười năm sau, tôi mới lại nghe tin tức ba mẹ. Lại vẫn
do cậu đưa tin. Cậu tôi cho biết đã liên lạc được với chị của mình. Không lâu
sau đó, tôi liên tiếp nhận được thư ba mẹ tôi bày tỏ lòng khao khát mong nhận
được thơ tôi và hình ảnh gia đình. Và tiếp đến là những lá thư mong mỏi tôi về
Việt Nam. Nhận thư, tôi đọc, lòng ngơ ngẩn, bâng khuâng, nhưng không có chút hứng
thú trả lời. Thậm chí nhiều năm sau, cái tin ba tôi đau nặng cũng chỉ được đón
nhận với lòng dửng dưng. Huy bảo tôi nên về. Cậu mợ gọi điện bảo tôi phải về.
Tôi thưa với cậu mợ rằng tôi không có cha mẹ nào khác ngoài cậu mợ; nhưng cậu
mợ tiếp tục thúc bách và giảng đạo lý. Tôi rủ cậu mợ cùng về. Cậu bảo cậu không
muốn giỡn mặt với cộng sản.
Cuối cùng, tôi khăn gói một
mình lên đường. Thời điểm này, chúng tôi còn nghèo nên Huy đành ở lại với hai
con. Nhưng đoạn đường quá xa để ba tôi không thể chờ. Ông vĩnh viễn ra đi vài
giờ trước lúc tôi bước vào ngôi nhà xưa. Dù vậy, tôi vẫn còn kịp nhìn mặt ba
tôi. Nhìn chỉ một lần mà vẫn đủ để khuôn mặt già nua, khắc khổ, hoàn toàn xa lạ
đó theo tôi về tận xứ Mỹ. Thỉnh thoảng nhân một liên tưởng về dòng họ, ai còn
ai mất, khuôn mặt của ông lại hiện ra cùng với những tiếng thở dài của mẹ. Thế
mà tuyệt nhiên, tôi không hề nghĩ đến việc thờ phượng ông…
Mẹ nằm trong buồng riêng suốt
đêm ngày, mãi đến tối hôm sau mẹ mới tươi tỉnh hẳn. Tôi rủ mẹ đi ăn đồ biển. Mẹ
ăn tự nhiên, ngon lành. Nếm đủ tôm, cua, nghêu, sò, ốc, hến, luôn cả hào tươi.
Lâu lắm mới có dịp ăn ngoài, tôi cũng tận lực nuốt. Trên đường về nhà, mẹ hỏi:
“Cậu bảo con có hai thằng con trai. Chúng nó đâu mà mẹ chưa gặp?” “Tụi nó đều
đã lập gia đình. Mỗi đứa ở mỗi tiểu bang khác nhau, khá xa. Đứa lớn ở Georgia,
có hai con, đứa nhỏ ở Texas, đang chờ con đầu lòng. Con đã sắp xếp để mẹ đến
chơi với chúng nó, mỗi đứa vài ngày, sau khi mẹ gặp cậu mợ.” Mẹ nhìn tôi, dò
hỏi: “Con ở đây một mình sao?” Tôi gật đầu: “Vì vậy mà con có ý muốn bán nhà
này về sống với mấy đứa nhỏ, luân phiên mỗi đứa một thời gian. Tụi nó đang năn
nỉ con về ở chung.” Giọng mẹ ngập ngừng: “Phải thú nhận rằng mẹ vừa trông thấy
căn nhà này là mê ngay. Nếu con bán thì bán cho mẹ. Mẹ con ta sẽ ở đây, mãi mãi
tới ngày mẹ chết…” Tôi đăm đăm nhìn mẹ. Tôi đã biết từ lâu là mẹ rất giàu, chỉ
ngạc nhiên về ý cuối. Nó đến quá bất ngờ như là một nhánh gai quẹt vào người.
Tôi nghe xót đau, khó chịu. Tôi không chuẩn bị việc này, cũng không muốn nó xảy
ra. Đầu óc tôi đông cứng.
Chợt hình ảnh Huy hiện ra,
miệng cười cười. Ba tháng nay, từ ngày anh mất, khi tôi gặp điều gì khó xử là
anh lại hiện về. Nụ cười của anh luôn luôn giúp tôi tìm giải pháp. Tôi thấy bao
nhiêu phiền phức nếu cho mẹ ở chung. Tôi đã quen với cuộc sống không có mẹ. Chỉ
mới hai mươi bốn tiếng đồng hồ “có mẹ” mà tôi đã chịu đựng biết bao gượng ép.
Mẹ nhìn tôi, dò hỏi. Tôi nói: “Con mới mất anh Huy. Con cần một thời gian yên
tĩnh.” “Mẹ cũng cần có thời gian sắp xếp mọi việc ở Việt Nam. Năm tới mẹ trở qua
sống hẳn với con. Con đồng ý chứ?” Tôi không biết nói gì hơn. Tôi như nghe
tiếng Huy văng vẳng: “Đừng làm mẹ buồn!” Tôi cố nhìn vào bóng đêm loang loáng
tìm hình bóng Huy nhưng chỉ thấy ánh đèn đỏ vừa bật ở ngã tư…
Sau năm ngày dạo chơi phố xá
và ngắm cảnh Nữu Ước, chúng tôi dành hai đêm thử thời vận ở sòng bạc Atlantic
City. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ, cả hai mẹ con thắng lớn. Chúng tôi về đến nhà,
tẩy rửa xong lớp bụi đường thì trời tối hẳn. Tôi thấy mệt mỏi nhưng mẹ tỉnh bơ
đề nghị để mẹ nấu ăn ở nhà. Tôi nói sẽ ăn ở nhà, nhưng mẹ khỏi nấu. Mẹ không tỏ
gì ngạc nhiên khi tôi gọi thức ăn bằng điện thoại. Bà ngồi thoải mái trong bộ
ghế êm ái, xem truyền hình đưa tin thế vận hội. Tôi sắp đặt chén đũa, khăn ăn
và nước ngọt, rồi ngồi xuống cạnh mẹ. Chợt mẹ quay sang tôi, giọng ngập ngừng
thiếu tự nhiên: “Mẹ phải nói với con chuyện này. Em trai con muốn nhờ mẹ hỏi
con giúp nó một việc.” Em trai tôi? Tôi từ từ hình dung đứa em trai của mình.
Tôi đã nhớ ra một hình dáng hiền hòa thường quanh quẩn gần tôi. Cũng như cậu và
mẹ, em tôi nhỏ thua tôi năm tuổi. Nhưng nó khác với tất cả chúng tôi là đã
không chào đời ở miền Nam. Tôi nhìn mẹ chờ đợi. Giọng mẹ đều đều: “Đứa con gái
út của nó học rất giỏi. Năm tới lên đại học. Nó muốn nhờ con giúp cháu qua học
bên này. Nó không muốn cho cháu ở nội trú. Nó xin cho cháu ở với con. Cơ bản là
con không phải tốn kém gì hết. Mẹ sẽ lo đi chợ, nấu ăn cho cả nhà...” Cơn giận
chợt ứ lên ngực làm tôi khó thở. Tôi hít vào một hơi thật sâu. Tôi biết là mở
miệng lúc này tôi sẽ nói ra lời cay độc.
Tôi nhìn ra ngoài trời đang đổ
mưa với những ánh chớp liên hồi. Tôi nhớ tới những cơn mưa đầy sấm sét trong
căn nhà thênh thang thuở lên mười. Thuở đó, cậu tôi đổi đi đơn vị xa và mợ theo
cậu. Người giúp việc thì ngủ gần bếp, xa căn buồng riêng biệt của tôi. Tôi đã
vô cùng sợ hãi và từng ước ao có được một đứa em. Bây giờ, tôi đâu còn cần. Tôi
nói chầm chậm: “Thì ra mẹ qua đây không phải vì con mà vì tương lai cháu nội
của mẹ!” Bà nhìn tôi, tỏ vẻ ngạc nhiên: “Con nói gì lạ vậy? Tất nhiên, mẹ qua đây
là vì con, bởi vì mẹ muốn bù lại thời gian ba mẹ bỏ bê con. Mẹ không hề vì cháu
nội. Nó chỉ ngỏ lời sau khi biết ý định của mẹ.” Mẹ đưa tôi lá thư cầm sẵn:
“Đây là thư nó gửi cho vợ chồng con.” Tôi hững hờ nhận. Mẹ tiếp: “Thật ra, nó
cũng đã hỏi các thủ tục xin ở nội trú. Không có con ở đây, con của nó vẫn qua
đây học. Mẹ thấy điều quan trọng là có người ruột thịt cận kề, coi sóc, nhắc
nhở.” Tôi cười chua xót, không còn ngăn được lời mai mỉa: “Ruột thịt? Có là
ruột dư với thịt thừa! Và mẹ đã từng cắt bỏ không thương tiếc!” Mẹ nhìn tôi đăm
đăm: “Con vẫn còn giận mẹ đến thế sao? Lần con về, mẹ đã hết lời giải thích…”
“Con vẫn nhớ các lời giải thích đó: Ba mẹ đâu có muốn xa con, chẳng qua chỉ vì
muốn góp phần giành độc lập, thống nhất đất nước. Thì đất nước đã độc lập thống
nhất, sao mẹ và cháu nội không ở Việt Nam mà hưởng.” Mẹ buông tiếng thở dài.
Tôi cũng chợt nhận ra mình vừa buông lời xỉa xói hỗn hào. Tôi trầm giọng: “Con
xin lỗi. Hễ nhớ đến những ngày con bị bỏ rơi là cứ muốn nổi xung thiên…” “Mẹ
phải làm gì để được con tha thứ, quên đi chuyện cũ. Con nghĩ lại đi. Ba mẹ đâu
có gửi con cho ai xa lạ. Người đó chính là ba mẹ ruột của mẹ. Con lúc nào cũng
nhận được trọn vẹn tình thương và chăm sóc…” Tôi cố giữ giọng bình thường: “Ba
mẹ ruột của mẹ chớ đâu phải ba mẹ ruột của con! Suốt tuổi thơ của con, con bị
bạn bè cười nhạo là đứa trẻ mồ côi, là con không cha không mẹ!” Nước mắt tôi tự
dưng ứa ra, rơi dài xuống.
Mẹ đứng lên, bước lại ôm
choàng lấy tôi. Tôi khóc nức nở trên vai mẹ. Khi muộn phiền đã dịu xuống, tôi
nhìn thẳng vào mắt mẹ: “Mẹ không thấy là mẹ không công bằng sao? Lúc con ở cái
tuổi rất cần sự săn sóc của ba mẹ thì ba mẹ bỏ đi biền biệt. Còn bây giờ, khi
mẹ muốn ở gần con thì mẹ đã bước vào cái tuổi gần đất xa trời, cái tuổi mẹ cần
con, chớ con không cần mẹ. Thật lòng mà nói, cho tới giờ phút này, con không
một mảy may cảm thấy chút gì thương yêu mẹ, thì nói chi thương yêu cháu.” Mẹ ôm
mặt, thân hình thả rơi lên ghế. Tôi nghe tiếng nấc của mẹ và nghe lòng chùng
xuống. Tôi nói nhanh như sợ không còn nói được: “Nhưng có điều chắc chắn là con
cũng không thể chối bỏ mẹ không phải là mẹ của con. Chừng nào mẹ muốn ở với
con, mẹ cứ ở. Chừng nào mẹ muốn đi, mẹ cứ đi. Điều em con muốn, cháu con muốn,
con khó mà nói được lời từ chối!” Mẹ vẫn ngồi yên, thút thít khóc. Đúng lúc tôi
muốn ngồi xuống ôm lấy mẹ thì tiếng chuông reo. Tôi thở hắt ra, bước về phía
cửa nhận thức ăn mang tới…
Rời San Francisco trên chiếc
xe chở khách, chúng tôi ôn lại những địa điểm đã viếng thăm qua ba ngày ở vùng
vịnh. Mẹ tỏ vẻ hài lòng đã được chính mắt chiêm ngưỡng chiếc cầu nổi danh
Golden Gate. Mẹ cũng yêu thích cái công viên cùng tên với khung cảnh nên thơ
thanh bình mà mẹ gọi là hồ Tịnh Tâm. Hai ngày ở San Jose, ấn tượng nhất đối với
mẹ là những hình ảnh sinh động, huy hoàng và lạ mắt của vô số loài sống dưới
nước hiển hiện ngay trước mắt trong Monterey Bay Aquarium. Khi chúng tôi về tới
quận Cam, cậu và các con cháu đón chúng tôi ở bến xe, chỉ thiếu có mợ. Khi tôi
thông báo mẹ sẽ sang thăm gia đình cậu, cậu nói sẵn sàng gặp mẹ, nhưng từ chối
cho chúng tôi tạm trú. Nhà cậu mợ rất rộng, nhiều buồng ngủ. Vợ chồng con cái
tôi mỗi khi qua Cali là ở nhà cậu mợ hà rầm. Cậu mợ hẳn phải đau lòng khi lần
này để tôi ở khách sạn chỉ vì… có mẹ!. Mợ không muốn chứa mẹ trong nhà. Hai đứa
em trai của mợ đều bị tập trung, một bỏ xác trong rừng Yên Bái.
Mỗi ngày, trong suốt một tuần,
cậu lái xe đến khách sạn đón chúng tôi đi viếng thăm hết nơi này đến nơi khác.
Ngày đầu, cậu dành cho khu Little Saigon. Mẹ thú nhận là rất ngạc nhiên về mức
phát triển quy mô và sự phồn vinh sang giàu của người Việt tỵ nạn. Những ngày
kế dành cho danh lam thắng cảnh. Có ngày chúng tôi bay khỏi thành phố đỏ đen
Las Vegas về phía Bắc để chiêm ngưỡng Grand Canyon vô cùng kỳ vĩ ngoạn mục. Cậu
thường dùng khoảng thời gian di chuyển để hỏi mẹ về gia đình và dòng họ ở quê
nhà. Cậu cũng kể về cuộc đời của cậu trong suốt nửa thế kỷ không gặp chị. Tôi
vô cùng thú vị được nghe hai chị em nhắc lại những kỷ niệm thời họ sống bên
nhau. Thỉnh thoảng, cậu và mẹ “đụng” nhau về đề tài chính trị thường là do cậu
khởi xướng. Một lần đang lái xe, cậu bỗng nhái cái giọng bắc của mẹ: “Thật đáng
tiếc! Nếu chị cả đừng… vớ phải cái ông trí ngủ nằm vùng thì giờ chị em gặp lại
dung dăng, dung dẻ biết bao!”. Mẹ nở ngay nụ cười đáp trả: “Thì cũng lỗi ở em.
Phải chi em không làm tay sai cho Mỹ Ngụy.” Cậu gật gù ra vẻ tán thưởng rồi bắt
sang chuyện khác.
Hôm đứng trước trường đại học
danh tiếng Stanford, cậu cười nói: “Đi thăm trường này, chị có nhớ đến những
năm chị dạy ở trường Đảng không? Phải công nhận duy vật biện chứng pháp hay
tuyệt. Đảng Cộng sản chủ trương “không có người bóc lột người”. Thế mà, ngày
nay, bản thân Đảng hóa thành “đảng bóc lột người”. Y chang… hủy thể của hủy
thể!” Mẹ bật cười giòn tan: “Đúng ra là… phủ định của phủ định!”. Một buổi tối
về khách sạn còn sớm, cậu lân la ở lại. Không biết dẫn dắt từ đề tài gì, hai
chị em bắt đầu bàn về Hoàng Sa, Trường Sa và sự hiếp đáp của Trung cộng. Bỗng
cậu đặt câu hỏi: “Ông Bush hứa với ông Dũng là sẽ ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ
của Việt Nam. Vậy giả sử Trung cộng tấn công Việt Nam và Mỹ đem quân qua giúp
đánh lại Trung cộng, thì đối với hai quân đội ngoại nhập đó, theo chị thì phải
gọi là gì? Tàu là quân xăm lăng, Mỹ là bọn xâm lược?” Mẹ cười duyên dáng: “Gọi
thế là…đúng sách vở đấy.” Vào ngày thăm viếng Getty Center, một công trình chi
phí hàng tỷ đô la, vừa đồ sộ về kiến trúc tân kỳ, vừa là viện bảo tàng nghệ
thuật cổ vật hàng thế kỷ, lại vừa quy mô về tổ chức, tất cả chi phí do nhà tỷ
phú Paul Getty đài thọ, cậu tôi bất ngờ hỏi mẹ: “Nghe đâu chị đang là tỷ phú
đỏ. Ngày xưa, chị chống Mỹ cứu nước, ngày nay nhà tỷ phú Việt Nam đổi mới đã
đóng góp được gì để dựng nước?” Mẹ cười: “Chị đang cho xây Đại Nam Quốc Tự thứ
nhì. Hôm nào khánh thành chị sẽ mời em về dự.” Cậu cười ra vẻ đắc ý: “Xin hỏi
lần này chị đặt ông Hồ ngồi ở đâu?” Tôi nhớ vừa đọc tin tức gần đây nói về ngôi
chùa vĩ đại mới xây xong có đặt ba bức tượng từ thấp lên cao: Hồ Chí Minh,
Khổng Tử, Phật Thích Ca. Tôi lo âu chờ câu trả lời. Mẹ nhởn nhơ: “Em về thì
biết.”
Đêm chót, trước khi rời Quận
Cam, trở lại Maryland, chúng tôi được cậu mời một bữa tiệc cá 7 món, đặc sản
Cali. Khi chúng tôi đến nhà hàng, tôi thật sự ngạc nhiên và vui mừng khi thấy
có cả mợ hiện diện. Mợ đứng lên, vui vẻ chào hỏi và mời mẹ ngồi bên cạnh. Mợ
vốn hoạt bát nên mẹ lúc nào cũng cười tươi. Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Lúc
chờ tính tiền, cậu hỏi mẹ bao giờ về Việt Nam. Mẹ bảo còn lâu, khoảng sáu tháng
nữa, và năm tới có thể là qua ở luôn. Cậu gật gù, nhìn mẹ, rồi nhìn tôi. Tôi
tưởng cậu tán thành quyết định của mẹ, nhưng cậu chậm rãi nói: “Phải nói là rất
ngạc nhiên khi nghe chị tính qua Mỹ ở luôn. Chị biết không, ông Hồ Chí Minh có
làm một câu thơ rất nổi tiếng: đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào! Ba mươi ba
năm qua, Ngụy đã nhào, Mỹ đã cút. Thế mà, giờ đây, có người đánh đuổi Mỹ lại
muốn… cút theo Mỹ!” Tôi bật cười, nhưng kịp hãm khi thấy mặt mẹ sa sầm…
Về Maryland, theo dự trù,
chúng tôi nghỉ ngơi ba ngày trước khi bay xuống Georgia và Texas. Nhưng, chỉ
mới qua đêm, buổi sáng mẹ buồn rầu đổi ý. Mẹ muốn về ngay Việt Nam. Tôi ngỡ
ngàng. Nhưng tôi chợt hiểu ra. Câu trêu chọc của cậu đã chạm tự ái mẹ. Xa nhau
quá lâu, mẹ không quen tính tình em mình. Cợt đùa, đốp chát vô tội vạ là thói
quen của cậu. Hiểu cậu thì không ai giận cậu. Không hiểu cậu, giận cậu thì ráng
chịu. Cậu nói đó, rồi quên đó. Tuy nhiên, tôi vẫn không muốn thay cậu ngỏ lời
xin lỗi mẹ. Tôi cũng không có ý định van xin mẹ khoan vội về Việt Nam. Tôi biết
chắc nếu tôi năn nỉ, mẹ sẽ ở lại. Gần tháng qua, tôi đã cảm thấy chút gì gần
gũi mẹ, nhưng xem ra vẫn còn một bức vách vô hình ngăn cản sự thoải mái, tự
nhiên, thân mật. Thậm chí còn có cái gì khác nữa khiến tôi có lúc bứt rứt, bực
mình. Không có mẹ, tôi ngủ nghê, ăn uống thế nào lúc nào tùy thích. Có mẹ, tôi
phải hầu hạ, e dè, trông trước ngó sau. Mẹ ở lại lần này, lần tới, sẽ ở lại mãi
mãi. Mà xem ra thời gian để xây đắp tình mẫu tử chẳng còn bao nhiêu.
Luật đời vốn trói buộc tôi vào
kiếp nạn mồ côi từ đầu đời. Có gặp lại cha thì chỉ khi cha mất. Gặp lại mẹ thì
mẹ lại bỏ đi. Thôi thì hãy coi mươi ngày bên mẹ đã là một hồng ân. Phải mất một
tuần, tôi mới đổi được vé máy bay. Trong tuần cuối đó, mẹ chỉ thích đi mua sắm.
Mỗi ngày, tôi đưa mẹ vào một trung tâm thương mại khác nhau. Ăn thì mỗi bữa một
nhà hàng khác xứ. Mẹ đã thưởng thức các món ăn Mỹ, Nhật, Thái, Đại Hàn, Mã Lai,
Nam Dương. Đêm cuối cùng, tôi hỏi mẹ có muốn ăn phở lần chót ở Mỹ không, mẹ
cười, bảo muốn ăn canh chua cá kho tộ. Tôi thấy chút ấm lòng… Hôm đưa mẹ ra phi
trường, chúng tôi im lặng suốt đoạn đường. Gửi xong hành lý, tôi kéo chiếc va
ly, tay kia nắm bàn tay mẹ bước chầm chậm về trạm kiểm soát an ninh cá nhân.
Khi gần đến dòng người ngoằn ngoèo chờ qua trạm, mẹ dừng lại. Tôi nhìn mẹ dò
hỏi. Ánh mắt mẹ ngập tràn âu yếm mà giọng cất lên trầm buồn: “Chắc mẹ sẽ không
qua đây thăm con nữa.” Tôi nghe xao xuyến nhưng vẫn lặng thinh. Lời mẹ êm như
tiếng thở dài: “Và khi mẹ chết, con cũng không cần phải về…”
Tôi
đứng chết lặng. Tôi có cảm tưởng như tôi đã cư xử quá tệ hại với chính mẹ mình.
Ý nghĩ trở thành đứa con bất hiếu khiến tôi buột miệng: “Mẹ! Con sẽ về. Thế nào
con cũng về. Cậu đã dạy con nghĩa tử là nghĩa tận.” Bà vòng tay ôm lấy tôi thật
chặt, giọng êm đềm: “Còn đây là lời mẹ dạy, lần đầu mà cũng là lời cuối. Con
hãy luôn luôn ghi nhớ: “Chú như cha, cậu như mẹ.” Con gắng giữ sức khỏe. Thôi
mẹ đi.” Mẹ nắm chiếc cần va ly từ tay tôi. Tôi vụng về ôm lấy mẹ. Mẹ áp má vào
má tôi. Tôi nghe chừng thân mình bay bổng. Khi tôi mở vòng tay, mẹ quay mặt
bước đi. Tôi thấy mình quá bất nhẫn, khẽ gọi: “Mẹ!” Bà quay lui, chân vẫn bước,
đôi mắt hiền từ. Tôi lúng túng vẫy tay, cố nở nụ cười: “Chào mẹ!
No comments:
Post a Comment