Thưa
quý vị và các bạn,
Thầy
Nguyễn Kim Quý có nhã ý gửi cho Khánh Thọ xem bài "Stendhal et Mes
Saisons En Enfer Communiste" mà Thầy đã đọc trước Hội Rotary Club tại
Antony mùa hè 1991, cách đây đúng 21 năm. Thầy cũng nhờ KT dịch ra tiếng
Việt và gửi cho quý vị và các bạn xem để cùng chia sẻ nỗi bất hạnh của các
sĩ quan VNCH (trong số có cha của KT) sau ngày Miền Nam bị quân Cộng Phỉ
cưỡng chiếm. Việc Thầy Quý, một cựu quân nhân QLVNCH, một cựu tù nhân cải
tạo, một cựu thuyền nhân, được Rotary Club Antony năm 1991 và Mairie de Paris
năm 1992 mời từ Mỹ qua Pháp nói chuyện là một vinh dự chung cho những người
Việt tỵ nạn, nhưng lúc ấy không ai được biết.
Trân
trọng.
STENDHAL ET MES SAISONS EN ENFER COMMUNISTE
Julien Nguyen
Lời giới thiệu và bản
dịch của Họa sĩ Lê Khánh Thọ, Châteauroux
Hè 1991, sáu năm sau
ngày đến Mỹ, cựu đại úy Nguyễn Kim Quý, cựu tù nhân cải tạo, cựu thuyền
nhân, tiến sĩ và giáo sư Pháp văn và Latin tại Đại Học Eastern Washington
University, đã được Phù Luân Hội (Rotary Club), Chi Hội Antony (Nam Paris),
mời đến thuyết trình về đề tài Việt Nam sau 1975. Ông đã chọn nói về những
năm ông bị giam trong các trại cải tạo Việt Cộng. Sau đây là nguyên văn bài
nói chuyện bằng tiếng Pháp (xin mở attachment, dạng PDF) trong đó
ông mô tả các trại tù và sự độc ác của Việt Cộng và cho biết nhờ ơn Thượng
Đế và tiểu thuyết của Stendhal ông đã được sống còn như thế nào, sau tám
năm đày ải.
Bài thuyết trình của
Tiến sĩ Nguyễn Kim Quý là một phối hợp đặc biệt, lý thú, giữa văn chương
huyễn mộng qua Stendhal và thực tế ghê tởm của những tù ngục Việt Cộng.
Stendhal, tên thật
Henri Beyle, là văn sĩ Pháp, thế kỷ XIX, tác giả những tiểu thuyết nổi
tiếng, Le Rouge et le Noir, La Chartreuse de Parme... mà những nữ
nhân vật đều tuyệt đẹp, và những nam nhân vật đều bị vào tù, thực tế hoặc
theo nghĩa bóng. Thế giới trong tiểu thuyết của Stendhal, kể cả những
truyện về tù ngục, vì thế, ngạt ngào phấn hương nhờ tình yêu, hạnh phúc và
hình bóng mỹ nhân. Lúc Stendhal còn sống, không ai đọc sách của ông. Mãi 50
năm sau khi chết, ông trở thành một hiện tượng trong văn học sử Pháp. Hiện
tại, ông là một trong những văn sĩ được nghiên cứu, phê bình, ái mộ nhiều
nhất. Có cả một Hội gọi là Stendhal Club, tại Paris và Grenoble.
Ngoài ra, luận án
tiến sĩ (1990) của giáo sư Nguyễn Kim Quý có tựa đề: La prison dans
l’œuvre romanesque de Stendhal (Tù ngục trong tiểu thuyết của Stendhal).
Tháng 3, 1992, cùng với một số giáo sư đại học trên thế giới, ông được
mời thuyết trình về Stendhal nhân ngày mất lần thứ 150 của văn sĩ được tổ
chức tại Paris, dưới sự chủ tọa của Tổng thống Pháp François Mitterrand.
Bài của các thuyết trình viên đều được in thành sách bán.
STENDHAL VÀ NHỮNG MÙA
DƯỚI HỎA NGỤC CỘNG SẢN
1.
Tôi không bao giờ
biết tại sao tôi yêu thích Stendhal và tiểu thuyết của ông nhiều đến thế.
Và điều đó, ngay từ thời trung học khi mà tôi thích thú đọc đi đọc lại
những trang đầy hương của Đỏ và Đen và Tu Viện thành Parme,
mặc dù cha tôi, một giáo dân Công giáo mộ đạo gần như cực đoan, rất ghét.
Về chuyện này, tôi sực nhớ câu mà ông Victor del Litto, Hội trưởng Stendhal
Club, đã bất thình lình hỏi tôi nhân dịp tôi đến Grenoble lần chót, cách
đây bốn năm: “Tại sao anh thích Stendhal?” Tôi bối rối, không biết trả lời
sao. Trong những lần phỏng vấn xin dạy học ở Mỹ, tôi cũng nghe lặp lại câu
hỏi tương tự. Nói thực, tôi thú nhận hoàn toàn không biết những lý do nào
khiến tôi ái mộ văn sĩ ngoại biên lỗi lạc này –nhưng được ít người biết, và
có lẽ ít người thích trong đám độc giả cùng thời với ông.
Quả vậy, đối với tôi,
yêu thích Stendhal cũng giống như yêu một người đàn bà, hay một người đàn
ông. Yêu hay không yêu, thế thôi. Nhất là với Stendhal, khởi đầu như một cú
sét ái tình rất êm ái. Sự kết tinh, để dùng chữ của ông trong De
l’amour, chỉ đến chậm và rất lâu sau đó. Và một cú sét ái tình, “nạn
nhân” nào cũng biết, là không cắt nghĩa được.
Năm tháng trôi qua,
và bây giờ tôi lại ngồi trước tờ giấy trắng tìm lại một câu cắt nghĩa mới
–gần như bất khả thi. Tôi yêu thích Stendhal, có lẽ bởi những tiểu thuyết
của ông, và trong tiểu thuyết của ông, bởi các nhân vật nữ bất tử, tuyệt
đẹp, dịu dàng quá đỗi, đã mê hoặc không chỉ những nam nhân vật, tình nhân
của các nàng, và những độc giả như tôi có tâm hồn đa cảm, mà còn những phê
bình gia hiện đại nghiêm khắc nhất nữa trong số có Paul Valéry, Jean-Paul
Sartre và Julien Gracq chẳng hạn, giữa nhiều người khác.
Tôi yêu, hơn nữa,
trong tác phẩm của Stendhal, mùi hương thần tiên, ngất ngây, không gian
diễm ảo, phi thời gian, cấu thành bởi thực và hư trộn lẫn, biến hình, đã vỗ
về lòng tôi trước bao nhiêu “sự thật thô bạo” của cuộc đời, và làm tôi mơ
đến những khoảng trời xanh hơn, những âm thanh tinh tuyền hơn cho những ca
khúc vĩnh cửu tôi dâng cho ái tình và nhan sắc.
2.
Trong thời chiến
tranh Việt Nam, lúc ấy là sĩ quan của quân lực Miền Nam, tôi luôn có trong
túi quần áo trận tập thơ Les Fleurs du Mal của Baudelaire và một
quyển tiểu thuyết của Stendhal mà tôi đọc giữa hai trận đánh, dưới giao
thông hào, trong trại binh hay quán rượu... Baudelaire, và nhất là Stendhal, như thế
ấy, đã giúp tôi thoát khỏi cái thực tế trĩu nặng mà, như Nerval nói, không
luôn luôn là em gái của mộng mơ. Tôi thường để hồn ru theo nỗi êm đềm
của một cuộc đời tưởng tượng trong tất cả vẻ rạng ngời của nó, tràn ngập
những mây hồng, những tình yêu thắm xanh, những nụ hôn vô tận, một cuộc đời
không có tên ở trần gian này. Cái chết rình rập chúng tôi mỗi giờ, nhưng
văn xuôi Stendhal, còn hơn là rượu và mỹ nhân, hay ma túy trong thơ
Baudelaire, đã cho tôi sự can đảm phi thường để đương đầu với nó, trực
diện: tôi đã quên nó, chưa đủ, tôi đã khinh bỉ nó, một cách rõ ràng, dứt
khoát. Như những nhân vật của Stendhal: Julien, Fabrice, Octave, Lucien
v.v...
Giai đoạn hậu chiến sắp cho quý vị thấy
tiểu thuyết, và đặc biệt của Stendhal, đã làm tôi mê đắm một cách vừa
chuyên chế vừa lợi ích như thế nào.
3.
Chúng ta đang ở vào năm 1975. Nền hòa bình
nhục nhã, áp đặt bởi những siêu cường lực trên đất nước chúng tôi ngày 30
tháng 4, chấm dứt một cuộc chiến cũng không kém nhục nhã và khai tử quốc
gia VNCH từ nay bị trao vào tay bọn bạo tàn Miền Bắc, kẻ chiên thắng không
ngờ. Ngày đó, bỗng nhiên tôi trở thành “tù binh” và “kẻ thù của nhân dân”
mà không biết chính xác tại sao. Chế độ mới, tự gọi là “cách mạng”, đỏ từ
đầu đến chân, nhanh chóng tự gắn cho mình một nhiệm vụ cao cả: đưa tất cả
sĩ quan và cán bộ Miền Nam vào tù. Tại đó bắt đầu mọi bất hạnh của chúng
tôi. Nhưng rồi, lòng tin vào Thượng Đế bỗng nhiên thức dậy trong tôi và sự
mê say không phai nhạt đối với Stendhal và những tiểu thuyết của ông thực
sự đã cứu vớt tôi, không chỉ thoát khỏi những xấu xí của đời sống mà còn sự
tàn nhẫn của cái chết –cái chết mà bây giờ tỏ ra ngàn lần đe dọa hơn trong
lúc chiến tranh. Như thế, nhờ ơn Chúa và nhờ Stendhal, tôi đã có thể sống
sót sau tám năm giam hãm, đói khát, đau khổ, thiếu thốn, trong những trại
tù khác nhau và cuộc đọa đày khủng khiếp xuống dưới hỏa ngục.
Hỏa ngục Cộng sản, dĩ nhiên. Nhưng không
có ngôn ngữ nào có thể mô tả đủ sự tàn ác của một trại tù do bọn Cộng sản
Việt Nam –tức là Việt Cộng– thiết lập. Đó là bọn cai ngục bẩm sinh, quý vị
hãy tin tôi đi, biểu chứng một khả năng và kinh nghiệm canh phòng vô địch.
Không một nơi giam giữ nào, hư cấu hay có thực, mà tôi được biết, kể cả Quần
đảo Goulag của Soljenitsyne, có thể so bằng những trại Việt Nam trong
cái mà tôi gọi là “độc ác tinh vi”: ở đây người ta giết tù nhân một cách
khoa học, tiệm tiến, nhẹ nhàng một cách khủng khiếp, bằng cái đói triền
miên. Để chế ngự chúng tôi hiệu quả hơn, bọn khốn nạn đã khai khác khéo léo
cái bản năng thấp nhất, tệ nhất của con người: nhu cầu ăn. Ít ra trong tù,
những nhân vật của Stendhal có thể ăn và uống đầy đủ: Fabrice lại còn có
sô-cô-la của Clélia và Julien có sâm banh và xì-gà của Mathilde gửi cho.
Còn chúng tôi, còn tôi, mỗi ngày, bắt buộc phải tự nhìn thấy mình chết lần
chết mòn như con vật bị vây hãm, sống một cái chết hoàn toàn đúng nghĩa tồi
tệ, nhục nhã, hèn hạ, cố tình bày ra bởi lũ Cộng sản –đồng hương của chúng
tôi. Một cái chết đến chậm, kéo dài, kéo dài, với trong hồn mỗi người tù sự
phẫn nộ bất lực, sự xấu hổ bị dồn vào thế buộc phải thường trực, mỗi ngày,
nghĩ đến cái dạ dày trống không và cách nào để làm đầy nó.
Bọn họ đã ra lệnh cho các sĩ quan phải
trình diện những “ủy ban nhân dân”, chuẩn bị một khóa học cải tạo mà theo
thông cáo chính thức với lối hành văn mơ hồ và bịp bợm sẽ kéo dài chỉ mười
ngày hoặc một tháng tùy theo cấp bậc. Lúc ấy vào tháng sáu 1975. Tuy nhiên,
không ai ngờ rằng đối với tất cả đó sẽ là một cuộc hành trình cuối đêm
xứng đáng với Céline, kéo dài từ tám, mười, cho tới mười bốn năm, và đối
với nhiều người, một chuyến đi không trở về, một lần vĩnh biệt cuộc đời và
thế gian, trong hai nghĩa đen và bóng. Đầu tiên chúng tôi bị giam giữ trong
những trại ở Miền Nam. Rồi một ngày đẹp trời, bọn họ chuyển ra Miến Bắc
khoảng một trăm ngàn “phần tử” bị xét là “phản động” nhất, nghĩa là nguy
hiểm nhất, trong đó có Tổng giám mục Sài Gòn Nguyễn Văn Thuận và một số
tướng lãnh. Trên biển. Trong vài chiếc tàu chở than cũ kỹ tịch thu của
“ngụy quyền”. Chúng tôi bị còng tay, bị nhốt hàng ngàn người trong các hầm
tàu, và như thể súc vật. Chuyến đi kéo dài ba ngày. Ba thế kỷ. Không khí
thiếu. Nước cũng thiếu. Thức ăn cho cả ngày là một ảo tưởng: mỗi tù nhân
được phát hai phong bánh bích qui mốc của lính made in China, lớn
bằng hai hộp diêm, chỉ vừa đủ để khỏi chết đói. Phía trên, không có gì
ngoài một vòm tối đen. Chung quanh, những thân xác bất động chất đống cạ
vào nhau và mình mẩy dính đầy bụi than. Cái nóng kinh hồn hành hạ tù nhân.
Ngay những giờ đầu, bốc lên một mùi hôi thối, làm ngộp thở, đầu độc căn hầm
đầy người. Khắp nơi, im lặng như chết.
Từ cảng Hải Phòng, nơi mà cuối cùng chúng
tôi được cập xuống, đến những trại tập trung khác nhau, còn một chuyền đi
nữa không kém kinh hoàng, kéo dài khoảng hai hoặc ba ngày, bằng tàu lửa hay
xe cam nhông. Vì biện pháp an ninh, cửa lớn và cửa sổ xe lửa phải đóng kín
mít, dưới cái nắng nung người. Trong những hỏa lò lưu động ấy, sự ngợp thở
kinh khủng đến nỗi một số tù nhân già yếu và kiệt lực sau chuyến vượt biển
đã chết trước khi đến nơi chỉ định.
Những trại tù ở Miền Bắc, tôi nghĩ khoảng
ba mươi, dành cho chúng tôi, đều nằm trong vùng núi –nơi sinh sống của
những sắc dân thiểu số lạc hậu nhất hay gia đình của những người bị đi đày
biệt xứ vì lý do chính trị từ thời Pháp thuộc và sau Điện Biên Phủ– gần
biên giới Tàu và Lào, ở đó những con muỗi to bằng những con ruồi hoặc gần
như thế. Trên đường, những trẻ em và bà già, bị thúc đẩy bởi mối hận thù từ
lâu nuôi dưỡng và luôn kích thích do sự tuyên truyền thô bỉ, đã ném thẳng
tay vào chúng tôi đất đá, đồ dơ và hét lên những tràng chửi bới thậm tệ.
Cũng như các bạn đồng cảnh khổ, tôi cố gắng nuốt những giọt nước mắt. Tủi
nhục, đắng cay, uất giận.
Cuộc sống tại các trại Miền Bắc còn hơn là
hỏa ngục. Không cách nào đào thoát được. Chúng tôi bị bao vây một cách
tuyệt vọng bởi những rặng núi trùng điệp làm thành những tường lũy thiên
nhiên kiên cố. Nhưng rồi, ngay cả nếu thoát được, làm sao, ở trên núi, có
thể sống sót với cái lạnh, đói khát và sức kiệt? Chúng tôi bị giam trong
những túp nhà cũ thấp mái rạ, nằm ngủ trên một thứ giường tập thể làm bằng
những tấm gỗ thô, không chiếu, không gối, không đệm, để rồi sáng mai thức
dậy mặt mày, mình mẩy rải đầy những vết rệp và muỗi cắn. Ngoài ra, cái lạnh
tột độ, làm buốt xương. Về quần áo, người ta chỉ phát cho chúng tôi một bộ
đồng phục màu xanh da trời bằng vải thô dùng trong kỳ hạn hai năm và một
tấm chăn cũ nát nhỏ xíu bằng len xấu. Không săng đan, không tất vớ, không
mũ nón. Những thứ này, chúng tôi phải tự xoay xở lấy, người ta bảo chúng
tôi, hoặc là mặc kệ! Vào mùa đông hay mùa mưa, không tài nào ngủ được, vì
cái lạnh và ẩm ướt khắc nghiệt, không thể chịu nổi nữa và chúng tôi bị cấm
đốt lửa trong nhà.
Tuy nhiên, tất cả những thứ ấy không là gì
so với cái đói, cực hình tồi tệ nhất. Phần ăn hằng ngày của chúng tôi, quả
vậy, là một chén sắn (khoai mì) cho một trong hai bữa. Không có ăn sáng.
Không cơm. Không sữa không đường. Không thịt không rau. Khoai mì mà người
ta cho chúng tôi đã được phơi khô và được dành những khi mất mùa cho heo
–mà heo, tôi đoán, cũng từ chối không ăn. Vì nó có màu đen đen, vị chua
chua, mùi thum thủm. Nhưng cái đói chiến thắng mọi ghê tởm và chọn lựa. Với
món ăn kinh khiếp này, những anh chàng to con nhất, sau vài tháng, có màu
da xanh mét, vẻ hốc hác, mặt teo lại. Sau một năm, trở thành những bộ xương
biết đi. Óc đặc lại, người ta không thể suy nghĩ hay phản ứng gì nữa. Quên
đi phẩm cách, một số người chỉ còn nghĩ đến cái ăn, và đó cũng tự nhiên
thôi. Tệ hơn, người ta đánh mất ý chí chống đối, phản kháng, tự trọng, và
tất cả điều đó hoàn toàn phù hợp với kế hoạch dự trù của Việt Cộng. Sự
thiếu dinh dưỡng và thiếu thuốc men sinh ra nhiều căn bệnh hiểm nghèo,
không tránh khỏi, ví dụ bệnh thiếu sinh tố và phù thũng –mỗi ngày, cùng với
bệnh sốt rét, chóng vánh đua về bên kia thế giới, một cách đơn giản, một
hay hai tù nhân khốn khổ.
Những người còn sống sót cứ tiếp tục nhai
sắn khô bằng thích, tiếp tục đói, tiếp tục đau, và nhất là tiếp tục lao
động khổ sai. Cai tù không ngớt lặp đi lặp lại rằng lao động là nguồn gốc
mọi vinh quang, rằng khởi thủy, con người đầu tiên, nghĩa là ông tổ của
chúng ta, là một con khỉ, rằng con khỉ ấy vì phải trèo lên cây hái trái,
xuống ruộng trồng lúa, vào rừng săn thỏ, vắn tắt, lao động vất vả, đã dần
dần mất bộ lông dài để trở thành đẹp đẽ, trơn tru như chúng ta hôm nay. Vì
thế, người ta hét vào tai chúng tôi, hãy tống cổ những kẻ chây lười lao
động, ăn bám, mình còn đầy lông lá, ra khỏi thiên đàng Cộng sản!
Về lao động hằng ngày, chúng tôi được chia
thành nhiều đội và tổ, và phải ra hiện trường làm việc tám tiếng mỗi ngày
và sáu ngày mỗi tuần, ngày Chúa Nhật dành cho học tập chính trị và những
công việc vặt vãnh khác nhau. Chúng tôi làm tất cả mọi thứ, thay đổi việc
làm, tổ đội, đồng đội cứ mỗi sáu tháng, đại khái: trồng rau cải, xà-lách,
lúa, bắp –những sản phẩm mà chúng tôi không được quyền ăn. Hoặc sáng sớm
vào rừng chặt gỗ, đốn tre. Xây hay sửa nhà, cầu, đường với dụng cụ thô sơ
từ thời Thượng cổ. Hoặc thay bò kéo cày trong ruộng, giữ trâu, nuôi heo,
còn gì nữa? Nói ngắn gọn, làm tất cả những công việc đối với chúng tôi –đại
úy, đại tá, và tướng lãnh– cho đến lúc ấy hoàn toàn xa lạ, chưa hề biết, vì
thế rất mệt. Thêm vào đó là cái đói, cái lạnh, sự tàn tạ thể xác và suy
nhược tinh thần, và quý vị đừng ngạc nhiên tại sao mức độ tử vong trong các
trại tù lên cao như vậy.
Nhất là sự suy nhược tinh thần. Nó giết
người cũng tàn nhẫn như cái đói và bệnh hoạn. Trong cảnh khổ, người ta
không thể bỏ qua sức mạnh của tinh thần và chịu đựng của tâm hồn. Không có
các yếu tố này, án tử hình sẽ không được bãi bỏ, không hoãn lại. Có nhiều
người trải qua suốt tháng, kể cả suốt năm, ngồi than vãn số phận, tiếc hão
một hạnh phúc, một vinh quang, hay một tình yêu vĩnh viễn bay mất, hay bám
víu một cách tuyệt vọng vào thực tại ghê tởm. Những người ấy, cái chết
không bao giờ bắt hụt.
Nhưng đó cũng chính là điều tôi đã làm
thời gian đầu. Tôi cũng đã khóc như mọi người trong đêm Giáng sinh đầu tiên
tại trại. Và như mọi người, tôi thấy đói kinh khủng, không cử động nổi,
thường té vì mệt. Sức mạnh thể xác và tinh thần suy sụp chầm chậm, nhưng
chắc chắn. Rồi một ngày, được nhìn thấy, bất lực, một người bạn thân thiết
chết trong hoàn cảnh hãi hùng và bất xứng của một con vật người ta đem đi
thọc huyết, tôi giật mình sợ hãi. Tôi không muốn chết như vậy, tôi lặp lại
cho chính mình trong cơn giận dữ đè nén. Chuyện kể trong Terre des
hommes của Saint-Exupéry về chàng Guillaumet mệt nhoài, nhưng cứ lầm
lũi bước đi trong tuyết ngày này qua ngày khác, để khỏi gục ngã, bỗng trở
về trong ký ức, rất đúng lúc. Và rồi, phục hồi sinh khí tôi không biết nhờ
sức mạnh thần linh nào, tôi bắt đầu buông lại lời thách đố năm xưa cho cái
chết hỗn láo, cái chết xanh xao trong thơ Horace, mà tôi đã vất vả
vật lộn với, từ thời chiến tranh, nhưng nó không bao giờ chụp bắt được tôi,
nhờ ơn Chúa. Nhất là, tôi la lớn, không bao giờ bỏ cuộc.
Bấy giờ, tôi bắt đầu cầu nguyện trở lại,
ban đêm, và đọc lại với sự say mê của một người tình cũ những tiểu thuyết
Stendhal, nhưng bằng trí nhớ, dĩ nhiên. Từ đó, tôi sống một thực tế khác,
tự xem mình đã chết đối với cuộc đời, như Octave trong Armance. Tôi
quên, cố gắng quên, bọn cai ngục và trại tù, đói và bệnh, quần áo tả tơi và
thân xác khô héo –tất cả những điều nhắc tôi không ngừng vẻ xấu xí của địa
ngục. Tôi chiến thắng nỗi bất hạnh của tôi bằng cách thôi tưởng nhớ những
người đàn bà đẹp mà tôi đã quen biết và có khi yêu trong cuộc đời và bây
giờ đã trở thành một thực tế còn khó với nắm, còn xa xôi hơn cả chính mộng
mơ. Trái lại, tôi chỉ nghĩ đến những nữ nhân vật của Stendhal –Mathilde,
Mme de Renal, Clélia, la Sanseverina, Armance, Mme de Chasteller, giữa
những nàng khác– mà hình bóng trác tuyệt, vĩnh viễn trẻ và đẹp, đã đưa tôi
rất nhẹ nhàng ra khỏi thực tế phũ phàng và tầm thường, cái thực tế mà tôi
nghĩ tôi không phải sinh ra để ôm lấy, ngay cả thời trước khi vào tù. Ngày
tháng của tôi trôi qua như thế, êm đềm, và tôi dám nói thêm, hạnh phúc,
dưới bóng những tình nhân đẹp như hoa, như những nàng thiếu nữ dưới hoa
của Marcel Proust, duy nhất, lạ thường, nhưng thủy chung, tôi tưởng, với
tôi cho đến phút lìa trần –những người yêu dấu duy nhất đã đến thăm tôi
trong tù, đem lại bình an và ánh sáng. Nhờ các nàng và sự hiện diện thường
trực, vỗ về, tù ngục của tôi, tuy không bao giờ có thể trở thành thiên
đường như của Julien Sorel hay Fabrice del Dongo, cũng đã mất đi vẻ thê
thảm để cho tôi kéo lê, trong nghĩa cụ thể, cuộc sống của tôi, hay đúng hơn
cái chết của tôi, một cách xứng đáng nhất, cho đến ngày 18 tháng ba 1983,
thời điểm tôi được thả. Sau tám năm trời!
Sau hơn một năm thất bại trong mưu toan
vượt trốn quê hương và nỗi khổ bị bắt lại, lần này như một thuyền nhân kém
may mắn, tôi và cô em gái, một đêm đen, được lên trên một chiếc thuyền đánh
cá nhỏ một hôm đã thả chúng tôi xuống căn cứ hải quân Subic Bay của Mỹ tại
Manila sau tám ngày, tám đêm trôi dạt trên Thái Bình Dương, giữa cơn bão
lớn. Nhưng đó là chuyện khác. Tôi trải qua một năm rưỡi tại hai trại tỵ nạn
ở Philippines trước khi đến Mỹ định cư ngày 25 tháng giêng 1985. Tôi hứa
với lòng một ngày nào sẽ đến viếng Đúc Mẹ Lộ Đức và viết cái gì đó về
Stendhal. Trong năm năm, tôi đã thực hiện hai lời hứa đó. Luận án tiến sĩ
của tôi –được chấp nhận với lời khen của các giáo sư trường Đại Học Oregon,
và được ông del Litto nhận in trong thư mục Stendhal qua nhà xuất bản Droz,
Genève– có chính cái tựa đề Tù ngục trong tiểu thuyết Stendhal. Tôi
không bao giờ có thể cảm tạ đủ Thượng Đế đã cứu vớt tôi như thế bằng cách
cho tôi một tâm hồn rất lãng mạn, rất mơ mộng và cho tôi niềm si mê về văn
chương và, mâu thuẫn thay, về Stendhal, người ta còn nhớ, không luôn luôn
dễ thương đối với Ngài.
4.
Tôi đã quá tuổi tiếc thương hư ảo rồi,
nhưng mỗi tiểu thuyết của Stendhal rực rỡ trong tôi như ánh sáng thiên
đường tìm thấy lại. Một mảnh đời tan vỡ. Tôi không thể sống mà không mộng
mơ. Cũng giống như những ngày trước, trong địa ngục Cộng sản. Thật là chán
nản vô cùng khi phải luôn bám vào thực tế, khi mỗi ngày không đọc một trong
những trang sách Stendhal đầy ắp yêu thương, mừng vui, và mùi hương phấn.
Dầu sao, để bắt chước Pascal trong cuộc cá độ hy hữu của ông, quý vị
sẽ mất gì khi đọc một tiểu thuyết của Stendhal? Không mất gì hết. Nhưng nếu
thắng, quý vị sẽ được cả một trời mơ, trước mặt và cùng với quý vị. Và để
kết thúc, tôi mạn phép được trích những dòng cuối từ quyển sách của tôi về
tù ngục trong Stendhal mà từ nay “là một cõi niết bàn, thực ra, không
tưởng (có tù nhân nào hưởng được số phận của Julien và Fabrice?), nhưng vô
cùng quý hóa cho tất cả chúng ta bị ném vào cuộc khiêu vũ giả trang được
gọi là đời sống, ở thế giới của giờ thứ hai mươi lăm này trong đó con
người, sau những chấn song và kém may mắn hơn những nhân vật Stendhal, phải
luôn đi tìm kiếm, như Henri Beyle trong suốt cả đời, một hạnh phúc hão
huyền, một dòng sông Léthé không còn chảy nữa, một giọt lệ không bao giờ
được khóc.”
Antony, VII, 1991
Portland, VIII, 2012
|
No comments:
Post a Comment