Monday, April 30, 2012

biển ơi đừng khóc

phạm ngũ yên


 


1.

Không ai gởi cho nàng đóa hoa nhân ngày Mothers’ Day. Chỉ còn tôi. Tôi mua nó nơi một siêu thị sáng nay. Từ mùa xuân vừa qua, hai hàng cây vào cổng nghĩa trang đã xanh đầy lá và trên bải cỏ phẳng phiu có dấu cắt của người làm vườn.

Không có lời thầm thì của gió để đưa đến tai nàng một lời tạ lỗi vì lâu lắm rồi, mọi lời nói đều vô nghĩa. Từ lâu lắm rồi tôi không còn thói quen để nói một mình khi đối diện với Ng. Có nhiều nỗi nhớ như những bó hoa được gói ghém trong một bao kiếng, có thắt nở vải nhiều màu và được đánh dấu cẩn thận. Có nhiều nỗi nhớ trần trụi và phơi bày ra giữa nắng gió cùng rét mướt. Và đàng sau đó có bao nhiêu tấm lòng thủy chung của người còn sống ? Tôi không hình dung được vì riêng tôi, tôi sẽ không muốn khua động một vết thương đời.

Vài ngôi mộ mới đắp chưa có kịp mộ bia. Vài ngôi mộ không được chăm sóc vì thân nhân hình như không còn tại đây. Những cây dâu có thân trắng bệt vì thời gian đứng im lặng như chứng tích của một bất hạnh. Mưa không lớn lắm nhưng đủ để tôi ướt át và tôi phải vào ngồi lại trong xe, nhìn ra quạnh hiu bên ngoài với một trái tim sũng nước. Ðời sống còn quá nhiều nghịch lý nhưng đời sống cũng quyến rũ không kém. Ly cà phê để trong vị trí của nó bên cạnh tay lái đã nguội lạnh từ lâu. Nhưng mùi hương của Hazelnut còn vương vãi chung quanh chỗ ngồi. Quanh những dây an toàn. Chiếc gạt nước uể oải chuyển động trên mặt kính mờ đục, tiếng kêu tựa như tiếng rít róng của một mù phù thủy già. Giữa tiếng rầm rì của máy xe chờ đợi khởi hành và hình ảnh bó hoa còn nguyên bao kiếng nằm trang trọng trước mộ bia, tôi muốn nói với nàng rằng đã đến giờ chia tay. Rằng hẹn sẽ gặp lại, kỳ tới. Những cuộc đời thiếu hơi ấm một bếp lửa luôn là những hướng đời chạy ngược về hai phía.

Có bao giờ chúng ta tự hỏi rằng những con ve sầu đã sống hết cuộc đời nó ra sao khi mùa hè không còn? Khi những lá khô xô xuống đời nhau để tiễn đưa một ngày cũ? Có biết bao điều quen lạ xãy ra trong thành phố này. Vì người đàn bà trở nên quyến rũ hơn bao giờ hết, khi nàng ngồi một mình. Mái tóc được vén lên cao để chiếc gáy trắng màu sửa phơi ra liền lạc với đôi vai trần. Ðó là những hình ảnh đầu tiên tôi bắt gặp khi tôi trở về Houston. Trong cái không khi se sắt của một ngày mưa và đường xá ướt đẫm những bụi nước, màu mắt của nàng làm cho buổi sáng càng thẳm xa. Nhưng hình như tôi sắp phải rời bỏ chỗ ngồi quen thuộc trong quán để trở về. Hồn lạnh căm tiếng gió. Và trống rỗng một màu đời.



2.

Khi con bão bay ngang qua thành phố biển của tôi, năm rồi, bạn tôi là Huỳnh Quốc Hải đã gởi cho tôi những bức hình ghi nhận những khung cảnh nhà cửa, đường phố bị tàn phá dưới đường đi của bão. Những bức hình được chụp bằng máy Digital và phóng qua internet cho nhóm bạn hữu Vũng Tàu. Hải tình cờ có mặt tại đó khi anh từ Mỹ trở về thăm nhà, cũng vửa tình cờ chứng kiến sự tàn phá của thiên tai. Ngoài những câu giới thiệu đôi nét chính về tình trạng đỗ nát tại các nơi mà chúng tôi từng có kỷ niệm ngày xưa, có một câu anh viết làm tôi xúc động:

“ Các bạn có còn nhớ cây điệp giữa khu nhà Lồng Chợ hay không? Cây điệp rất già nua, rất lâu đời, nơi mà chúng ta thường ra coi các đoàn Sơn Đông mãi võ diễn tuồng. Cây điệp đó cũng bị tróc gốc hết rồi...”



Thành phố nơi tôi khôn lớn, luôn có rất nhiều hình ảnh mật thiết đã theo tôi đi suốt những mùa trăng thơ ấu. Những hình ảnh đó từng khua động hồn tôi như tiếng sóng xô vào bờ cát mỗi ngày. Chúng như bóng mát che kín hồn tôi, và đôi khi làm thành cánh gió kéo theo từng cánh diều lộng lẫy bay qua tuỗi thơ tôi. Có những con đường, những cửa tiệm mãi đậu xuống trí nhớ của các đứa con trai vùng biển, không bao giờ chìm khuất, không bao giờ tàn phai. Dù qua bao tháng năm thay đổi. Dù những đứa con của Vũng Tàu bây giờ đã già nua, đã hom hem như lá úa, như cây đời. Làm sao chúng tôi có thể quên mất tên của các con đường như Trấn Hưng Ðạo, Lý Thướng Kiệt, Phan Thanh Giản...? Làm sao chúng tôi có thể quên tên các tiệm buôn bán nằm song song hai bên đường Trưng Trắc, Trưng Nhị...? Các tiệm Thanh Bình, Tây Hồ, Nhựt Tân, Lâm Quới Cảnh, Liên Tinh, Thăng Long, Nguyễn Văn Tư, Văn Ánh...

Tiệm Kim Phượng là một trong những cửa tiệm đã từng góp phấn làm nên lịch sữ phồn vinh của Vũng Tàu. Kim Phượng là một tiệm vừa chụp hình vừa bán những đồ đạc liên quan đến nhiếp ảnh. Sau này tiệm có bán thêm đồ bách hóa, giầy dép...

Huỳnh Quốc Hải lớn hơn tôi một tuổi nhưng anh học chung lớp với tôi những năm Trung Học Ðệ Nhứt Cấp. Anh là một trong những đứa con trai cưng của gia đình Kim Phượng. Ðúng như câu nói ngày xưa, Hải thuộc dân con nhà giàu, học giỏi và rất đẹp trai. Thời đi học, những anh em của Hải đã nổi tiếng đào hoa và từng là nổi say đắm của các cô gái cùng lớp. Sau khi gia nhập quân đội- là binh chũng Không Quân, Hải cũng vẫn là người lính hào hoa và thường xuyên làm mê hoặc phụ nữ.

Ðó là chuyện của ngày xưa, của những thập niên 60, 70. Cấp bậc cuối cùng của anh khi gần mất nước là Thiếu Tá Không Quân, ngành Hoa tiêu Quan sát. Sau năm 1975, Hải cùng chung số phận với những Sĩ Quan thuộc chế độ cũ, anh bị tù và khi trở về thì cùng lúc nghe vợ anh mất. Giống như lời thơ của Hữu Loan:

”lấy chồng thời chiến chinh

mấy người đi trở lại,

lở khi mình không về,

thương người vợ hiền bé bỏng chiều quê

nhưng không chết người trai khói lửa

mà chết người em nhỏ hậu phương...



em ơi giây phút cuối

không đuọc nghe em nói

không được thấy nhau một lần...

khi gió chớm thu về gờn gợn nước sông

chiếc bình hoa ngày cưới

được thay bằng chiếc bình hương tàn lạnh vây quanh...”



Anh đã tìm gì sau những ngày trở về từ trại tù đắng cay? Chỉ còn là những hoa ô môi nở trắng như khăn tang trên đầu của con thơ và đàng sau anh là dòng sông, nơi bắt đầu của biển. Không hề có tiếng cười và một bếp lửa long lanh màu đời. Anh trở lại Vũng Tàu sống chung với gia đình. Buồn và hoang mang hơn ngày còn ở trong tù.

Ông bà Kim Phượng tìm cách cho anh vượt biên bằng đường biển. Trước ngày Hải đi khoảng vài tháng, tôi có ghé thăm anh tại nhà. Anh tôi đưa ra ngồi quán cà phê vỉa hè gần quầy sửa chìa khóa của một người bạn, cũng học chung thời Trung Học. Ðó là lần cuối tôi gặp anh ở trong nước. Hơn 10 năm sau tôi mới gặp lại Hải ở hải ngoại.

Góc ngã tư đường Phan Thanh Giản và Lý Thường Kiệt buổi sáng thưa thớt xe cộ và người mua bán. Bàn ghế chông chênh nơi quán cà phê sao giống như cuộc đời chúng tôi lúc đó. Thềm đường loang lỗ những mảnh xi măng nứt nẻ không được tu sửa. Ðâu đây, những biểu ngữ giăng ngang hai trụ điện, ca ngợi một “thành phố mười mùa hoa”. Có những đóa hoa tỏa ngát hương thơm vì mùi vị an bình. Có những đóa hoa làm úa sầu hạnh phúc. Những người chiến thằng luôn tưởng họ là những người bổng dưng đem đến cho dân chúng miền Nam những niềm vui. Nhưng thấp thoáng đàng sau cái thiên đàng treo kia có biết bao là cuộc đời mệt lã?

Cũng nơi quán cà phê vỉa hè nầy, chúng tôi đã từng chia xẽ với nhau những đắng cay vì đời không cho nhiều vị ngọt. Cái đắng cay đồng nghĩa với bất trắc, sợ hải, khi chung quanh chúng tôi mỗi ngày đón nhận thêm một tin xấu từ một người thân hay bạn bè. Nó không đủ đễ chúng tôi cạn kiệt niềm tin, nhưng có khả năng làm cho những mơ ước bị bào mòn, bị kéo xuống thấp la đà với cơm áo. Giống như cành diều ngẫn ngơ trên một góc phố buồn, lòng chúng tôi chao đảo giữa chừng, sắp đứt.

Cũng nơi quán cà phê này, chúng tôi đón nhận thêm một vài người bạn học cùng thời, cùng lớp. Nguyễn Văn Lô mỗi ngày đạp xe từ Rạch Dừa, Cát Lở ra ngồi cụng ly với chúng tôi. Lô cũng là lính Không Quân như Hải, nhưng là Sĩ Quan Tiếp Liệu tại Quân Ðoàn 2, Nha Trang, Lý Ngươn Hồng đi Quân Cảnh Tư Pháp, bị thương giải ngũ ngũ trước ngày sập tiệm, nhà gần bên hông rạp Võ Ngọc Chấn, cách chỗ chúng tôi ngồi có một block đường, uống ruợu nhiều hơn ăn cơm, đêm về nhà kêu cửa bà già không được, ngủ tại hành lang. Lý Ngươn Hồng cũng thuộc type người đẹp trai, nhưng hơi nhỏ con. Ruợu vào “đủ đô” hát bản “Mùa Thu Lá Bay” bằng hai thứ tiếng. Tiếng Việt và tiếng Tàu. Tiếng hát lã lướt không thua gì Doanh Doanh bây giờ. Có Lê Công Thiện ở Xóm Vườn, đóng ghe “dả cào” nhưng không phải để đánh bắt cá tôm mà để chờ ngày ra khơi. Có Phạm Văn Phước, sĩ quan không quân, lái trực thăng ngoại hạng. Những tình huống khó khăn và nguy hiểm, phi hành đoàn giao cho Phước. Trong một lần tản thương, trực thăng bị trúng đạn. Phước bị thương một chân vả giải ngủ trước ngày mất nước. Về Vũng Tàu lấy vợ. Có Nguyễn Minh Tân, sáng say chiều sĩn. Vừa uống rượu vừa nói chuyện tiếu lâm. Buổi sáng chúng tôi tụ tập dưới tán dù vải chỉ che một phần bóng mát lên chiếc bàn sửa ổ khóa của một người bạn khác. Ly cà phê ngập ngừng trên môi mỗi người như tiếng lá khô rụng xuống bên hiên đời. Buổi chiều tàn ánh nắng, chúng tôi gầy độ nhậu. Ðôi lúc có mưa bay trên đầu, bên kia đường là tiệm kem Ðại Nam, nơi từng có mấy chĩ em chủ quán có những đôi mắt xanh như màu biển khơi. Tấm lòng của những gả con trai chùng xuống và ướt át mưa bụi, đôi lúc trái tim tưởng như có thể phơi bày ra rõ ràng bên này chai rượu ruợu đế. Nhưng không phảỉ như vậy. Vì buổi sáng hôm sau tụ tập “điểm danh” mới biết tin “ai còn ai mất”. Có người vượt thoát thành công. Có người thất bại. Trong những người may mắn có Huỳnh Quốc Hải, Vợ chồng Lê Công Thiện, Lý Nguơn Hồng. Sau này có thêm Nguyễn Văn Lô. Còn Phạm Văn Phước bị chết ngay lúc xuống bãi. Ðể lại một vợ và bầy con nheo nhóc. Nguyễn Minh Tân không chịu đi, cũng không có cơ hội đễ làm đơn theo chương trình H.O vì ở tù không đủ 3 năm, giờ đang làm tu sĩ tại gia, (tiệm Nhựt Tân) ăn chay trường và đêm đêm tiếng tụng kinh gõ mõ của anh bay xa ra tận bên kia đường Trưng Trắc.

Những gã đàn ông lỡ thời và nát ngứu tương lai đi trên những chuyến ghe khác nhau, lầm lũi nhưng nôn nóng một bến bờ xa lạ. Họ ra đi, nhưng không hình dung nơi sẽ đến. Không biết về đâu, về đâu...

Cuối cùng họ gặp nhau trên đảo.

Huỳnh Quốc Hải đến đảo và nghe nói dường như anh có một mối tình trên đảo. Một thời gian sau anh được định cư tại Hoa Kỳ. Anh lập gia đình với một người phụ nữ khác, cùng làm chủ một tiệm Nail ở Alabama. Rồi chia tay. Rồi gặp gở một người phụ nữ khác, rồi chia tay. Cuộc đời của anh được viết xuống bằng những trang nhật ký tình yêu mà trong đó mỗi dòng chữ nổi cộm lên sự chia ly, tan tác. Bây giờ thì Hải sống an phận (như lời anh nói) tại Houston với hai người cháu gái con của bà chị ruột. Thỉnh thoảng anh về Việt Nam thăm lại bà Mẹ đã hơn 90 tuỗi. Cụ bà còn sống, nhưng đôi mắt đã lòa. Bà ở cùng với đứa con gái út, cũng có tên là Kim Phượng, tại ngôi nhà cũ- ngôi nhà và cũng là cửa tiệm- từng chứng kiến sự khôn lớn, thành đạt của mỗi đứa con thân yêu.

Một lần trở về Việt Nam, anh gặp lại một người tình cũ đang là nữ bác sĩ phục vụ tại bệnh viện Cần Thơ. Những gì đã đến và đã xãy ra mà theo anh nói với chúng tôi- trong những cuộc họp mặt tại Dallas- thì đó là một tình yêu cuối đời (?). Tôi hi vọng như vậy. Những con sói rừng hoang đã thấm mệt để không còn rong chơi và chạy đuổi theo những vạt nắng làm cháy rát môi khô rồi chăng? Người phụ nữ đó đang ở Cần Thơ và chờ đợi một cánh buồm chuyển bến.

3.

Tháng 5 ở Hoa Kỳ có ngày Lễ Mẹ. Những đứa con hiếu thảo ở Mỹ sẽ nhớ về đấng sinh thành của mình và nếu cần để cho tình cảm trở nên sâu đậm hơn thì đóa hoa hồng sẽ thay mặt nói lên điều đó. Người ta ước tính sẽ có mấy trăm triệu đô la sẽ bỏ ra trong ngày lễ quan trọng này để trang trải cho chi phí mua hoa và quà cáp cho Mẹ.

Con gái tôi không cỏn Mẹ để tuần qua nó đi ra siêu thị tìm mua một bó hồng. Trên cánh đồng tuổi thơ ngày nào, nó sẽ không có cơ hội để nhớ về những bước đi chập chững vào đời. Về cái nắm tay hờ hững nhưng ngậm hết nỗi chua xót mà bây giờ nó mới chạm đến.

Hai mươi một tuổi, nó đang đi về phía trước với lòng êm ả những niềm vui. Như đường phố đang cháy thênh thang những tấm lòng của phượng. Còn tôi thì sao?

Mẹ tôi đã không còn cách đây 10 năm. Khi bà mất tôi không có mặt ở Việt Nam để chia sớt với gia đình một mảnh khăn tang. Trong khi mưa bay trên đường chiều mịt mùng, làm ướt những tờ giấy vàng mã bị rụng rơi. Những gì mất đi, chúng ta không thể thu nhặt lại. Trong đó tình yêu, lòng hiếu thảo và sự biết ơn.

Một buổi chiều tháng năm, đang lúc làm việc tại sở làm thì có tiếng chuông điện thoại cầm tay reo. Bên kia đầu dây là tiếng nghẹn ngào cùa Huỳnh Quốc Hải. Anh đang ngồi ở phòng đợi phi trường và loan báo cho tôi biết Mẹ anh, bà Kim Phượng vừa mới mất tại Vũng Tàu. Anh phải mua gấp vé máy bay để về Việt Nam, và chỉ còn kịp nhờ tôi bày tỏ lại với bằng hữu. Hơn sáu mươi tuổi đời và sằp đi hết con đường tử sinh, nhưng không biết tại sao tôi nghe thấu đáo hết sự run rẫy từ một buồng tim già nua đang cách xa tôi mấy trăm dặm đường dài, trong tiếng gầm rú của phi cơ ngoài phi đạo. Tôi cảm nhận được trong hơi thở của anh, đang ràn rụa nước mắt và bất chợt tôi và anh cùng cảm giác được sự yếu đuối, sự non trẻ như mới ngày nào, cách đây năm mươi mấy năm, tôi và anh, và những bạn hữu cùng thời tại Vũng Tàu- đã yếu đuối nép mình dưới cánh tay của các bà Mẹ để đến trường.

Trong tất cả các bà Mẹ Vũng Tàu chúng tôi, thì có lẽ cụ bà Kim Phượng là có tuổi thọ hơn hết. Bà mất vừa đúng 94 tuổi. Mẹ của Hồ Danh Lịch mất năm 92 tuổi tại Cần Giờ. Mẹ của Nguyễn Văn Lô, của Trần Quang Thọ, của Nguyễn Văn Khổ, của Trần Minh Trí, của tôi lần lượt ra đi cách đây nhiều năm. Bà cụ thân mẫu của Ðỗ Khắc Khoan thì vừa mới qua đời năm ngoái tại California. Mẹ của Mai Văn Tư cũng vậy, qua đời tại Bến Ðình, Vũng Tàu.

Huỳnh Quốc Hải đang ở Việt Nam để tham dự tang lễ Cụ Bà Quảng Thị Huyền. Không biết anh đau khổ nhiều như thế nào, nhưng tôi biết anh sẽ nghe trong lòng mình ít nhiều giông bão. Những cơn bão luôn đi qua đời sống, qua những vai đời và xóa sạch không thương xót mọi dấu tích tưởng chừng như sẽ không có một áp lực hay một tai ương nào có thể chạm đến. Giống như cây điệp già nua trước nhà Lồng Chợ, giữa hai con đường Trưng Trắc Trưng Nhị. Cây điệp đã trốc gốc. Ðã bị đốn ngã.

Một lần tôi nghe anh nhắc đến thời niên thiếu của mình, khi anh còn đi học. Giữa khuya, đang ngủ trong nhà anh chợt thức vì tiếng chân khua động lề đường Trưng Trắc- con đường trước nhà anh. Ðó là tiếng guốc gõ lộp cộp của mấy bà cụ già đi coi hát cải lương về khuya. Họ vừa đi vừa bàn tán về tuồng hát, về những đào kép, về những gánh hát đương thời. Nhóm này qua rồi nhóm khác đến. Trước khi họ đến tiệm Kim Phượng thì tiếng nói loáng thoáng ở tiệm trồng răng Lâm Quới Cảnh. Rồi âm thanh trở nên rõ ràng hơn khi đoàn người đi ngang nhà. Cuối cùng chìm khuất khi quẹo về cuối góc tiệm Tây Hồ. Tôi ngạc nhiên hỏi lại anh tại sao mấy cụ già đi coi hát lại về hướng đó. Anh trả lời đó là những người ngụ tại Xóm Nhà Thờ và Xóm Lưới. Một số khác về hướng sân vận động. Họ mượn con đường Trưng Trắc để đi vì đường xá sạch sẽ và có nhiều ánh điện. Có thể khi anh nằm nghe tiếng guốc khua động như vậy, thì biết đâu, trong căn phòng riêng của mình, Cụ Bà Kim Phượng cũng nằm nghe như vậy. Bà đã từng nghe những âm thanh thân mật, dể thương đó trong suốt ngần ấy năm trong đời?

Lũ lượt mọi người vượt qua biển dâu. Những con người của mấy mươi năm cũ không còn.

Nhưng những điều nhỏ nhặt như vậy không vượt qua trong đời sống chúng tôi mà đang sánh vai song hành. Ðôi lúc chúng tồn tại và rực rỡ ghim chặt xuống tâm hồn lưu vong như những vì sao đêm ghim chặt ánh sáng của mình trên nền trời....


No comments:

Post a Comment