phạm ngũ yên
1.
Lòng ta như một trang
kinh
Ẩn trong lời Phật chữ tình rưng
rưng
Lòng ta lá nhỏ trên
rừng
Lao chao rớt xuống mấy từng chiêm
bao
(thơ Hoàng Du Thụy)
Bài thơ đó do một người bạn văn từ Canada, gửi tặng.
Chị nói với tôi chị đang tìm nguồn vui trong thiền và lòng
không còn vướng bận những nhánh đời nhân quả. Mỗi đêm về nhà, lái xe qua những
hàng sơn táo, qua những vạt cỏ màu vàng như ủ bằng mật ong chị nghe mùa xuân trở
mình và tiếng gió rít ngoài kiếng xe, lòng quên hết mọi tranh chấp, muộn
phiền...
Những buồn vui ngày trước từng làm tròn trịa một tình yêu
cũng không còn? Như một cơn mưa bóng mây bay rớt trên góc tường hạnh ngộ, làm
thiếu thốn phía bên này và khao khát phía bên kia.
Biết bao bóng thuyền muộn màng không về được bến vì giông
bão giữa dòng, nhưng đàng sau những cơn bão lòng là trái tim lành lặn.
Trên điện thư trả lời, tôi cầu mong chị tìm thấy sự an tịnh
thật tình và hi vọng thành phố Montreal có thêm một người đàn bà biết ủ đóa vô
ưu trong lòng để dẫm lên những mù lòa dâu bể. Mọi giấc mơ đều củ xa, đều bỡ ngở.
Nhưng thâm tâm tôi không tin nhiều về điều chị nói. Những
câu thơ vẫn còn đó sự trăn trở rất đời. Vẫn còn bao la một nhánh sông muộn phiền
lấp lánh. Hơi thở tình yêu hình như vẫn còn tươm mật trên môi run ngày nào...
Người đàn bà từ bỏ một đoạn đường và không nhìn lại sau
lưng, không có nghĩa là quá khứ đã đoạn lìa. Dù vẫn còn đó vạt mưa làm trắng màu
thiền trên vai áo, trong khi tiếng đời vừa xao động lá sen
khô.
Bài thơ bất chợt chị gởi tôi từ một đêm như vậy, trong khi
tiếng gió quét mùa hạ đi qua ngôi nhà đường Heatherglen. Tôi nhớ vô cùng ngôi
nhà cũ của gia đình tôi nằm dưới chân Núi Lớn Vũng Tàu. Biển thổi giạt nỗi nhớ
mênh mang về hai đầu ngọn núi. Nhiều đêm tôi chong đèn ngồi học thi lúc bên
ngoài trời mưa. Và những câu thơ của một mùa không ngủ được viết xuống bằng mực
tím học trò. Những ngọn cỏ khát gọi mưa đêm nên nảy mầm thành lục bát.
Bao nhiêu năm rồi, tiếng mưa có khả năng làm thành cung
phách bản đàn xưa và cơn mơ vội vàng như một âm thừa sót
lại.
Khi người ta già, người ta sẽ nhìn lui lại bước chân mình.
Những người đàn bà giống như sương mỏng, như sông xanh. Họ thà ủ hơi thở sững
sốt của mình trên vai người khác hơn là đậu xuống những trang giấy tình hồn
nhiên. Những cuống lá mùa thu không biết nói lời hò hẹn, nên đêm Vũng Tàu có một
người úp mặt vào đôi tay, thao thức.
Thành phố ven biển của tôi cũng giống như mọi thành phố
miền Nam. Có hai mùa mưa nắng rõ rệt. Những cửa biển xưa mờ cạn nước. Những gả
con trai cùng rong chơi với nhau suốt một mùa hè, trên bãi cát khô cạn mực thủy
triều. Nên chúng tôi đều hiểu tánh tình của nhau tường tận. Hiểu luôn những thói
quen của nhau. Như những con còng gió hiểu rõ hang động của
mình.
Mười sáu, mười bảy tuổi chúng tôi không dám có người yêu.
Mãi đến khi gần đi lính mới nói lên lời tỏ tình thì cổng trường đã ở sau lưng.
Cái thời nông nổi nhưng nóng cháy môi hôn kia đã khép
lại.
Những đứa con trai tình si và các cô gái e ấp đã đi riêng
một đoạn đường, dưới những cây bàng già phai màu đỏ lá. Những nhịp thời gian như
những nhip cầu nối đôi bờ cách trở. Còn sự cách ngăn của hai người yêu nhau thì
đến bao giờ?
Một vài đứa bạn dạn dĩ hơn dám nắm tay người yêu đi ngoài
phố. Mặc cho những lời đàm tiếu có dịp lan xa như sóng trùng dương. Vũng Tàu quá
nhỏ để che kín một dấu vết, hay một tiếng lòng hổn hển bên
vai.
Mỗi ngày đi học tôi đi ngang qua con đường Lê Lợi có hàng
me chụm đầu vào nhau. Tôi biết Hoàng Hoa từ thời đó. Lá me rắc trên vai áo ai
làm rộn rã lòng tôi. Nhưng tôi biết nàng dửng dưng như nắng
sớm.
Người con gái mang cái tên của Hoàng tộc và chứa đựng một
màu hoa đã từng không biết có một đứa con trai ngưỡng mộ nhan sắc đi sau
nàng.
Khi tôi bước xuống cuộc đời, tôi vẫn chưa biết rõ về nàng,
ngoại trừ cái tên nghe gần gũi với một người bạn học của tôi là Hoàng Lực.
Hoàng Hoa là một cô gái có đôi mắt đẹp nhất mà tôi từng
thấy trong trường Trung Học Vũng Tàu những năm sáu mươi. Một đôi mắt làm nguồn
cảm hứng cho lời thơ Ðinh Hùng/ mắt em là bóng dừa hoang dại, âu yếm nhìn tôi
không nói năng/(mộng dưới hoa) Nó cũng là nguồn cảm hứng cho những bài thơ của
tôi sau này, khi khôn lớn.
Nhà nàng nằm một góc ngã tư đường Lê Lợi và đường Duy Tân.
Một phía nhìn ra hàng me và phía kia nhìn ra biển. Có thời gian ngôi nhà khang
trang đó dùng làm nhà bảo sanh Hữu Phước. Từ một góc phố chạy dài từ cơ sở sản
xuất Mấm Ruốc của bà Giáo Thảo, đến nhà nàng, có một vài ngôi nhà khang trang
nằm thụt sâu vô trong, được những khu vườn màu sắc che chắn bên ngoài, như bối
cảnh trong tranh của Renoir, nên khi nàng quẹo khuất vào đó tôi có cảm tưởng
nàng đã đi vào một thế giới khác, mông lung và mơ hồ. Một thế giới của nàng tiên
trong các truyện cỗ tích.
Tan trường về, tôi tìm cách đi sau nàng. Thời đó, học sinh
học hai buổi một ngày. Buổi trưa về nhà ăn cơm, có thể ngủ một giấc để buổi
chiều đi học tiếp. Tôi dùng khoảng thì giờ ít oi đó để làm thơ tình gởi đăng báo
hoạc đọc truyện chưởng Kim Dung. Tôi thích nhân vật Ðoàn Dự trong Lục Mạch Thần
Kiếm và thấy mình si tình Hoàng Hoa giống như Ðoàn Dự si tình Vương Ngọc
Yến.
Ít khi Hoàng Hoa đội nón. Nhờ đó từ phía sau tôi nhìn thấy
mái tóc trên vai nàng chuyển động như đôi cánh một loài chim đêm. Có những ngày
tháng người ta sẽ quên luôn vì thời gian chồng chất trên vai, nhưng có những
ngày tháng ngừng lại vĩnh viễn. Thời gian học đệ tam là thời gian đẹp nhất của
tôi trước khi tôi vào lính. Tôi muốn được yêu thầm và được đi sau lưng nàng suốt
đời, mặc cho những biến động của đời sống và bom đạn chiến tranh mỗi ngày vang
vọng ngoài kia. Dưới bước chân êm đềm và quanh quẩn bên tà áo dài khép nép của
Hoàng Hoa, tình yêu đã che lấp mọi dấu vết tan hoang. Che lấp mọi hướng đi về
tương lai. Dù tương lai của những gả học trò sinh trong thời binh lửa vàng úa
ngỡ ngàng.
Mối tình một chiều như vậy tưởng chừng sẽ kéo dài để cho
những trang nhựt ký có cơ hội tăng trang từng ngày. Cùng những bài thơ viết từ
tấm lòng thơ dại sẽ có dịp hóa thân thành cánh bướm trang điểm cho đời. Nhưng
tôi lầm. Một hôm nàng bỏ trường bỏ lớp không một lời từ giả. Chúng tôi- những
thằng con trai khờ khạo trước tình yêu nhưng lại dạn dĩ với bất trắc bổng thấy
vắng đi một bóng mát êm đềm. Biển trở nên cuồng nộ chói chang từ ngày đó. Những
trái bàng già rụng xuống tháng giêng dọc đường ra Bãi Trước, giống như những mơ
ước chưa kịp đơm bông.
(Nhiều năm sau nầy, khi gặp lại Hoàng Hoa, lúc miền Nam sụp
đổ, tôi thấy nàng vẫn còn đẹp dù có già hơn chút đỉnh. Chồng của nàng là đại úy
Trần Bình Lâm, hình như không phải là dân Vũng Tàu? Vừa rời khỏi một nhà tù nào
đó trở về).
Biết bao nhiêu bể dâu làm khô kiệt mọi nhựa sống trên những
nhánh cây đời? Những thanh niên thiếu nữ ngày xưa bây giờ đã trở thành cha thành
mẹ. Có người trở thành ông nội bà ngoại nếu lập gia đình sớm hơn. Có ai một lần
đi lại con đường cũ ngày xưa để cảm giác được ngậm ngùi? Có ai còn buổi chiều
ngồi trên bờ đê nhìn ra mặt nước xanh để ước mơ cuộc sống bên kia bờ đại dương
như tôi đã từng mơ ước? Và nơi góc sân vận động ngày nào có còn những đôi chân
vẽ vời của bạn tôi, của Võ Như Lăng, của Huỳnh Văn Chừng, của Huỳnh Quốc Hải,
Trần Minh Trí, Phan Phi Hùng, Huỳnh Kim Sơn? Của Trung đen, Trung trắng?... Còn
những ai đã nướng cháy tương lai mình như những khoang thuyền đang cháy nắng mặt
trời?. Suốt mùa ra khơi không tìm ra một mẻ lưới vinh quang trĩu đầy tôm
cá?
2.
Trên bãi biển đời người có nhiều dấu vết để lại. Có những
dấu vết hằn sâu còn đọng lại một vài phiến lá kỹ niệm. Có những dấu vết hời hợt
bị xóa lấp khi sóng biển tràn dâng. Tình yêu cũng vậy. Khi tôi rớt Tú Tài năm Ðệ
Nhị, tôi xin vào lính. Mái tóc bồng bềnh của tôi được người ta cắt ngắn còn ba
phân và mỗi ngày tôi bơi trong bộ quân trang rộng thùng thình mới lảnh từ kho
Quân Nhu. Tôi làm một người lính mang tấm lòng yêu nước pha trộn với sự chua xót
để đến mỗi khi chiều xuống, ngồi một mình trên chiếc giường gỗ ở khu tạm cư,
lòng tôi cứ chùng xuống vì nhớ nhà.
Dưới những góc cây bã đậu buổi sáng đầu ngày, tôi khom lưng
chà láng từng đụn cát, theo lệnh thượng cấp, như đang chà láng mọi ước mơ của
mình. Người ta nói: “thao trường đổ mồ hôi - chiến trường bớt đổ máu”. Nhưng với
tôi, mồ hôi chảy ra mỗi ngày không đủ sức vá lành rách rưới của trái tim. Mà chỉ
có khả năng làm tràn thêm những giọt lệ.
Khóa học quân sự đầu tiên khi vào lính của tôi là Khóa 39
Hạ Sĩ Quan Trừ Bị- (Rớt Tú Tài anh đi Trung sĩ)- Khóa học thuộc quân trường
Quang Trung, nằm trong khu vực Hóc Môn, Gò Vấp. Từ Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ
chúng tôi chuyển về Quang Trung, trại Nguyễn Huệ. Buổi chiều đứng trong trại
nhìn ra ngoài con lộ chính chạy về Sài Gòn, những chuyến xe đò, xe lam xuôi
ngược kéo theo đàng sau nó những bụi bặm hối hả như hoa phấn cuộc đời. Lòng
người tân binh cũng vàng vọt theo vạt nắng. Cách nhau một con đường, bên ngoài
là tự do phiêu bồng và muôn ngàn niềm vui đô thị. Bên trong là đời sống gò bó
theo khuôn khổ và tập quen với nắng lửa mưa dầu. Người lính lúc nào cũng căng
lòng ra chịu đựng mọi thử thách và cố đè nén chuyện riêng tư. Và trong một lúc
nào đó, nếu họ để tình cảm vượt lên trên lý trí (không tìm thấy chính nghĩa
trong cuộc chiến tranh Quốc- Cộng mất còn) sẽ dễ bị nản lòng. Tôi trưởng thành
nhờ những ngày tháng quân trường không ồn ào nhưng sôi động mỗi bài học sống.
Tâm hồn tôi không chờ đợi để ướt át cơn mưa đầu mùa. Vì tự trái tim đã thẩm thấu
nhớ nhung và chín mùi gian khổ. Những lá thư tôi nhận từ bên ngoài, từ những địa
chĩ hoa, như một niềm phục sinh đủ để làm hành trang chờ ngày ra trường. Trên
chiếc giường ngủ cá nhân hoặc trên ba lô khi dừng chân ngoài bãi tập, những lời
thơ tôi khôn lớn chững chạc hơn những lời thơ ngày trước, những ngày biết Hoàng
Hoa. Từ khóa học này tôi gặp Dzũng Chinh- Nguyễn Bá
Chính.
3.
Anh là tác giả bản nhạc bất hủ “Những Ðồi Hoa Sim”. Dzũng
Chinh là bút hiệu khi đặt nhạc. Nguyễn Bá Chính là tên thật của chàng tân binh
khóa 39 HSQ Trừ Bị của Quang Trung vào thời điểm tháng 9 năm 1965. Vài năm, sau
khi ra trường, có lẽ mặc cảm với cấp bực trung sĩ, anh xin học khóa Sĩ quan đặc
biệt, và khi tôi đổi về làm việc tại Trung Tâm Truyền Tin Ðà Lạt, nghe tin Dzũng
Chinh vừa chết tại Qui Nhơn. Lời ca: “... mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến
không hẹn được ngày về, và đường về... thênh thang... màu hoa tím loang dài
trong bóng tối...” đã giống như định mệnh của người nhạc sĩ tài hoa không may
mắn với đời. Trên những đồi cát chập chùng nắng gió Qui Nhơn, màu hoa sim của
Hữu Loan miền Bắc đã thấm vào tấm lòng đôn hậu của người nhạc sĩ Dzũng Chinh
miền Nam. Để làm nên bài hát từng một thời mê hoặc người yêu nhạc
Sàigòn.
Khi người ta yêu, cũng giống như khi người ta chết, có một
thời họ ủ đau thương trên những dòng mực làm bằng máu lệ của
mình.
Một lần, nơi Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ, chúng tôi-
những tân binh vừa mới rời mái ấm gia đình để tham dự vào một trò chơi mang ít
nhiều nguy hiểm là chiến tranh- ngồi vây quanh nghe Dzũng Chinh đàn cho một
người khác hát. Tôi không còn nhớ tên người hát, nhưng tiếng hát của anh ta thật
ấm lòng. Anh hát liên tiếp hai bài. Bài đầu tiên là Những Ðồi Hoa Sim và bài sau
là Phố Vắng Em Rồi (của Mạnh Phát). Giữa bóng tối nhá nhem buổi chiều vừa xuống,
dưới tàn nhánh già nua của cây bả đậu, mùa thu đang thở hơi sương trên các rào
kẽm, giọng ca của người ca sĩ bềnh bồng, cuốn
hút.
Không biết người ca sĩ đó có phải là đệ tử của nàng Phù
Dung hay không, nhưng lời ca quả tình mang hơi hám của khói và nhựa. Nó có khả
năng lôi kéo người nghe bay lên ngang tầm với khổ đau và lạc thú cùng lúc... Nó
cũng làm cho trái tim dù bầm vập cũng biết rung động và biết cười khóc với
đời.
Mãi khi ra hải ngoại, tôi nghe giọng hát Tuấn Vũ, tôi biết
quả có điều đó. Tất cả đều im bặt và nín thở nghe anh hát. Những lời ca tưởng
chừng bật ra khỏi một thanh quản rướm máu hay cuộc đời vừa rướm máu? Tôi không
thể lý giải được. Chỉ biết rằng từ đôi môi khô ráp vì khói thuốc và đôi mắt nhìn
xuống hai kẻ ngón tay vàng ám, nơi điếu thuốc đang cháy dở dang, tình yêu đã nở
hoa như cánh bướm màu hạnh phúc...
4.
Cuộc đời đang vàng phai theo những gió mùa, hôm nay ngồi ôn
lại những bước tình đầu ái ngại của mấy chục năm về trước. Tình yêu và mộng ước
cũng tan theo dòng đời. Lòng tôi không còn tươi mới để rượt đuổi theo bóng sắc
mượt mà. Nhưng lửa tro than vẫn còn âm ỉ.
Ba mươi mấy năm sau, bất chợt gặp lại những người con gái
cũ của trường xưa. Họ vẫn phơi phóng một tấm lòng của biển. Ðường phố Bolsa có
đông vui nhưng lòng ai đã quạnh hiu một góc chợ chiều. Thời gian không dừng lại.
Bên ly cà phê báo hiệu một đêm mất ngủ, vài mẫu chuyện gợi lại một khung trời
hương mật và màu xanh của sóng đang lao xao trong
mắt.
Một lần ngồi ở Starbuck’s (góc đường Brookhurt- Enginder)
nhìn ra giao lộ đèn đỏ trùng điệp những đời xe mới toanh, nghe từ cuối một hành
lang vọng lên bài hát. Quán cà phê Mỹ nhưng có nhiều người Việt Nam ngồi. Tiếng
nhạc từ chiếc bàn kế cận không quen thuộc, nhưng dấy động một nỗi
buồn:
Ngày xưa anh đón em
Nơi gác chuông chùa nọ
Anh bây giờ qua đó
Còn thấy chữ trong
chuông
Em khoát áo nâu sòng
Anh một đời biền biệt
Tên em giờ tha thiết
Theo tiếng chuông chiều
đưa...
(Phạm Thiên Thư/ Dấu Chân
Chim)
Người con gái có tên Hoàng Hoa một thời tôi theo đuổi tại
Vũng Tàu bây giờ đã đi tu. Tôi không biết duyên cớ nào làm nàng từ bỏ cuộc đời
dung tục này để nương thân vào cửa Phật? Câu chuyện nghe có vẽ đượm mùi cải
lương mang dấu ấn của Lan và Ðiệp. Nhưng tôi biết nàng vẫn từng hạnh phúc sau
khi không còn đến trường. Tôi biết người chồng đẹp trai của nàng là Ðại uý Trần
Bình Lâm. Sau 30 tháng 4 năm 75, nàng bương chải bán thuốc tây ngoài chợ trời để
nuôi chồng ở tù và nuôi mấy đứa con còn nhỏ. Ðôi lần tôi gặp Hoàng Hoa dắt xe
đạp từ chỗ gởi xe, gần chợ chiều Vũng Tàu. Bên kia đường là biệt thự cũ bây giờ
dùng làm trụ sở Phường Châu Thành. Nàng không có vẻ gì nhìn thấy tôi. Hay nhìn
thấy tôi mà làm như không biết. Chiếc áo bà ba thay cho chiếc áo dài ngày thơ
dại. Và đôi mắt đẹp buồn não nùng.
Mỗi cuộc đời đều giống như một dòng sông. Có khi sông vặn
mình chảy xiết qua những gềnh thác cheo leo. Có khi sông âm thầm nép kín sau
những khúc quành. Sông ủ đời sông theo những ngày tháng lạnh của mưa và trong
veo của nắng. Nhưng sông không bao giờ quay đầu trở lại thựơng nguồn, mà chảy
luôn về biển.
Mối tình một chiều của tôi, với Hoàng Hoa, giống như dòng
sông vậy.
Ðêm đêm, lời kinh của nàng có làm sầu muộn thêm những đóa
hoa sứ trong vườn Bồ Ðề? Ðêm đêm, tiếng gỏ mõ của nàng có làm kinh động những
cánh bướm mòn mõi giang hồ?
Tôi nghe người bạn học chung lớp của nàng từ Việt Nam trở
qua kể lại. Hoàng Hoa giam mình trong một chiếc am nằm trên đường ra Ô Quắn (Au
de Vent). Mỗi tuần, Trần Bình Lâm chạy Honda đem thức ăn chay cho nàng. Nàng
hạnh phúc trong câu kinh tiếng mõ. Chờ đợi ngày hóa
thân.
Nhớ xưa em rất dịu dàng
Hồn vang tiếng guốc mơ màng Hoàng
Hoa
Em từ cõi Huế đi ra
Hương Giang bổng mặn phù sa Vũng
Tàu
Bây giờ em rất thanh
cao
Áo xanh nay đổi áo bào Quan
Âm
Ðêm qua một đóa u trầm
Rớt trên kinh Phật tưởng lầm môi
ai?
Tôi làm bài thơ ngắn có mấy câu coi như tạ lỗi hàng me
đường Lê Lợi. Từ nơi đây tôi thơ dại và cũng từ nơi đây tôi khôn lớn với đời.
Một đôi mắt đẹp đã sâu hút từ đêm Vũng Tàu vàng ấm mùa
thi.
5.
Nơi căn phòng nhỏ nhìn ra sân mưa bên ngoài chiều nay đang
ngổn ngang cành khô mà sáng ngày mai xe đổ rác sẽ đến dọn, tôi vừa biết thêm một
cảm giác vội vàng khi tháng năm lao đi vùn vụt. Đâu rồi tia nhìn của lửa làm
cháy bỏng đời nhau và sợi tóc còn vương lại trên chăn nệm? Những tình yêu phờ
phạc cuốn hút cơn đau tuyệt vời và sau đó lìa nhau vĩnh
viễn.
Có những giấc mơ chết non và bất hạnh ghim xuống lòng như
một vết mực lầm lỡ. Một vài con chim đậu trên hàng dây điện như những nốt nhạc
màu đen trên quá khứ buồn. Người đàn bà có con mắt màu nâu và vành môi cong vút
màu tulip vừa rời khỏi đời tôi hôm qua để bay theo những phù hoa. Bay theo biển
dâu và nắng gió chói chang bên ngoài. Nàng đến không ồn ào và đi cũng không
tiếng động.
Không ai tắm hai lần ở một dòng sông. Cũng như không ai học
biết đủ một bài học. Tình yêu cũng vậy. Khi tình yêu đi qua ranh giới của thù
hận và đắng cay, tình yêu tự nó sẽ chết.
Nơi
căn phòng cũ trong ngôi nhà đướng Heatherglen, trên chiếc bàn gỗ bên ngoài Patio
đang thánh thót mưa thu, tôi vừa biết thêm một bài thơ hay của một người bạn ở
Tennessee. Lời thơ không cần bia bọt hay cà phê nhưng vẫn làm ấm áp, dù
thơ anh như muối xát trong lòng:
cây hồn anh, thôi lá rách cành
hư
năm bảy trái tình chưa xanh đã
rụng
qua thời đất chai tới mùa nước
úng
tiếng chim hoài im lặng một đời
cây
năm ngón thon dài hiền dịu bàn
tay
ngón út cho anh đợi ngày vuốt
mắt
những ngón ngoan kia lỡ cho người
khác
(ôi tay em, chỉ một ngón đang
buồn...)
(Hoàng
Lộc)
Có chuyến xe lửa nào vừa từ một nơi chốn lạ
về ngang qua công viên sau nhà. Những toa tàu kín bưng nhốt bao nhiêu tâm hồn
thao thức một thềm ga?
Tôi luôn yêu mến và kính trọng những cuộc
tình không tìm ra trạm xuống. Đó là những cuộc tình đẹp tay ba dù nó luôn ủ bằng
nước mắt và tuyệt vọng. Từ những đôi tình nhân dù biết rằng phải lạc mất nhau
nhưng không biết phải hóa giải bằng cách nào, họ vẫn cầm tay nhau đi với sự can
đảm pha lẫn buồn rầu, trong khi sương mù mịt mùng phía
trước...
No comments:
Post a Comment