phạm ngũ yên
Thật thơ mộng và đẹp, nếu chúng ta cứ sống mãi bằng quá
khứ. Mới đó mà ba mươi hai năm. Mới ngày nào tóc còn xanh và vai còn vươn tới
trước. Mới ngày nào còn đi lang thang trên từng góc phố khua động tiếng xe cộ,
tiếng rao hàng, lòng căng đầy cánh gió bình minh.
Cách đây nhiều năm, một đêm mùa xuân tôi gọi điện thoại về
thăm nhà. Trên đường dây viễn liên tiếng Mẹ tôi run rẩy. Bà buồn bã mong được
thấy tôi trở về trước khi Bà khuất núi. Tôi trả lời dứt khoát là chưa thể về
được. Sự dứt khoát đau đớn mà sau này tôi rất lấy làm ân hận.
Trên những khung cửa xô ngược mặt kính lên bầu trời, tiếng
gió nghe rền rĩ. Tôi nín thở nghe tiếng thở dài của Mẹ tôi. Một khoảnh khắc trôi
qua nhưng sao dài cả một đại dương và núi non chập chùng. Tiếng gác điện thoại
từ tốn của Mẹ tôi- sự từ tốn luôn đi theo Bà từ bao nhiêu năm.
Khi Cha tôi nằm xuống, Mẹ chỉ mới ngoài hai mươi. Người phụ
nữ chưa từng biết có mùa xuân hoặc nếu có thì mùa xuân đó chỉ ngắn hạn. Mẹ trãi
hồn mình trên những tháng năm bên bầy con chưa biết buồn, và mỗi đêm nghe cơn
mưa chạy dài trên mái nhà, nhủ lòng đừng khóc.
Tôi không biết tại sao tôi lại làm cho Mẹ tôi buồn vì một
điều đơn giản như vậy. Ðàng sau thành công của tôi, nếu có (có đúng như vậy
không?) có bao nhiêu giọt nước mắt long lanh trên đôi mắt buồn rười rượi của
Bà?
Biển của Mẹ muôn đời vẫn xanh. Nhiều mùa xuân tôi không về.
Mẹ vẫn biết vậy, nhưng vẫn dựa lưng vào biển để ngóng trông. Những ngọn gió mang
mùi muối thổi sau lưng bà.
Những chuyến xe chiều đậu lại trong thành phố, không có đứa
con cứng đầu của Bà bước xuống. Vẵng từ nơi xa, dưới một hàng cây bàng già nua
như tuổi đời của Mẹ, con chim trốn biệt không đậu xuống nhánh cũ. Những hoa sứ
không còn màu trắng mịn màng như ngày tôi ra
đi
Có những nhánh sông đem theo phù sa mỡ màng về làm hạnh
phúc cho biển. Còn tôi. Không có một lời hứa để làm no đầy mong đợi của Mẹ tôi.
Một chút nào cho lớn khôn và một chút nào cho dối
lòng?
Bây
giờ Mẹ đã ra người thiên cổ. Năm Bà mất là năm 1997. Tôi cũng vừa bị thất
nghiệp. Trong căn nhà đường Heatherglen, con gái tôi mở lại tape băng có ghi lại
đám tang của Bà Nội nó tại Vũng Tàu, Việt Nam. Chị Hai của tôi gởi qua. Ðêm thị
thành hiếm muộn những vầng trăng. Những cây bàng già trắng lá chạy ngang con
đường ra nghĩa trang, giống như tuổi thơ của tôi chạy ngang qua những năm tháng
góa bụa của mẹ tôi. Tôi run rẫy viết xuống những câu thơ, y hệt như tiếng thở
dài run rẫy của mẹ tôi lúc gác máy điện thoại:
‘Bởi những bước chân xa nay không thể về
gần
Hãy gởi cho con một thời góa
bụa
Hãy gởi dùm con Vũng Tàu nắng
lửa
Biển mồ hôi da cháy nắng khoang
thuyền
Những trái bàng già rụng xuống tháng
Giêng
Những bông sứ nằm yên nghe tháng
Chạp…”
Góc phố dường như còn xào xạc bước chân của ai làm bùng lên
nỗi nhớ. Cho dù tình yêu có tàn lụi nhưng một màu son vẫn còn. Nhiều năm trôi
qua, con đường qua chỗ nằm của nàng đã thay đổi. Cửa tiệm và cây xăng mọc lên.
Những chung cư và nhà cửa mọc lên ồn ào. Không còn sự trống trải và quạnh quẻ mà
thay vào đó là tiếng động của đời sống đêm ngày. Chỉ có những con chim đen là
vẫn còn. Chúng bay từng bầy giữa buổi chiều mùa đông như giỡn chơi với thời tiết
giá lạnh. Một nơi khác, chúng đậu hàng dài trên những đường dây điện. Gió rét
thổi qua lưng chúng. Vài nhà thờ nhô lên cây thánh giá vừa mới sơn phết lại
trong mùa lễ vừa qua. Tiếng chuông ngân ngại ngần xa tít.
Bên đường, dưới cột điện giao lộ, đôi tình nhân chờ đèn
xanh để băng qua đường. Họ cho nhau hơi ấm trong bàn tay và nhìn về một hướng.
Lát nữa đèn xanh bật lên, họ sẽ cùng vượt lên phía trước. Họ sẽ đi qua những
đông buồn, những thu xám. Và những bình minh trước mặt. Còn
tôi?
Mùa xuân này tôi sẽ viết những câu thơ dài lê thê như nỗi
buồn. Và những bài tạp ghi tròn trịa một nỗi nhớ. Khi người ta già và tuổi tác
trở nên có vấn đề, người ta sẽ ngồi ôn lại quá khứ.
Biết làm sao để quay về với thời gian của thanh xuân. Của
không gian bao la nhưng chật chội những kỹ niệm đẹp? Của Ðà lạt. Của Sài Gòn.
Của Vũng Tàu. Mọi thứ đều đã gần mất dấu sau tháng tư năm 1975.
Khi một tình yêu giống như một đời lá ngủ vùi trong một góc
hiên đời, người ta sẽ khó lòng để thấy lại màu xanh của chúng. Những chiếc lá
không thể cựa mình để lên tiếng một cành nhánh xanh um. Mùa đông ném lên chúng
những giá rét và một hôm nào đó chúng sẽ tàn
rũ.
Lúc tôi rời Sàigòn, mùa xuân năm 1991. Tháng ba vừa mới
chớm cái rét nàng Bân trên những mái che trước thềm tam cấp của Nhà Hát Lớn, mà
sau nầy chế độ Cộng Hòa dùng làm trụ sở Quốc Hội. Một quán cà phê nằm bên hông,
sâu trong một hành lang hẹp, nhìn ra con đường Nguyễn Huệ lúc nào cũng đầy xe
cộ. Tôi vừa từ giả Ngọc để ra đi. Ngọc cũng vừa từ Bảo Lộc để về Sài Gòn. Mùa
xuân thổi qua vai chúng tôi tiếng gió và mùi thơm của cà phê lan tỏa trong không
khí.
Nàng vừa đem theo cái trầm mặc của cây rừng để hòa cùng với
cái nắng của biển mà tôi đang ủ trong lòng. Một khung tường cũ hiện rõ đám rêu
xanh chạy dài từ sân sau của quán ăn thông ra đường Hai Bà Trưng. Hình như có
một hãng làm bia nằm trên đó. Lâu rồi tôi không nhớ. Những xe hàng lớn chạy vào
bốc những thùng bia bỏ vào trong thùng xe rồi chạy ra. Một cổng gác sơ sài mọc
lên để kiểm soát cho có lệ.
Nàng hỏi tôi: “Anh định qua bên đó rồi ở đâu?”
“California”. “Anh đâu có bà con thân thuộc bên đó?”. ”Không có ai. Nhưng Cali
có nhiều tòa soạn báo và anh nghĩ anh có thể xoay sở để sống bằng ngòi viết”.
Tôi trả lời.
Những rồi tôi không về Cali mà trôi giạt về Texas. Một
thành phô non trẻ của cộng đồng người Việt, một năm có 3 tháng nóng cháy da và 3
tháng lạnh run phổi.
Nàng ngồi trước tôi. Sau lưng nàng màu xanh của tán dù vải
dội xuống như một màu thông. Tóc nàng ngày đó chẻ hai trên đầu và cột phía sau
làm thành một cái đuôi. Ngày đó tôi yêu Ngọc biết bao.
Tôi nhớ những ngày đông đầy mưa tại thành phố Blao của
nàng. Nàng theo tôi vào quán cà phê bên bờ hồ Ðồng Nai Thượng. Lúc đó tôi đi
linh và trú đóng tại đó. Một quận lỵ nhỏ chỉ có vài ba quán cà phê, nhưng có cả
trăm tiệm bán trà. Ly cà phê đắng và nóng làm nàng bị bỏng môi. Hay những đêm
rối bời hạnh phúc, sau lưng là bếp lửa chập chờn ôm ấp một thanh xuân.
Thành phố của nàng không có mùa hè nên không có những giọt
mồ hôi để làm chứng tích một tình yêu phờ phạc. Căn phòng trống không nhốt hết
gió lùa, nên được gần gụi nhau là một hạnh phúc.
Bây giờ, những ngày của mùa xuân 1991, tôi sắp rời xa nàng.
Lòng tôi chùng xuống. Chiều xuống dần và tiếng gió rượt nhau trên các lề đường,
nơi những bước chân từng kề cận bên nhau. Rồi lạc rời nhau mất dấu.
Tôi nắm bàn tay trần trụi không đeo nhẩn của nàng. Nàng
lặng yên. Gần mười năm không gặp nhau, nàng vẫn chưa chịu đi tiếp một con đường,
trong khi tôi thì có một gia đình khác và một đứa con gái. “Có những chuyện
không nên buồn”. Nàng nói với tôi. Giữa hai bờ môi phụng phịu. Tôi hỏi: “Tại
sao?”. Tôi từng hỏi những câu tại sao trong suốt nhiều năm và chưa tìm ra câu
trả lời thỏa đáng. Có những điều có thể lý giải được, và có những điều
không.
Như tại sao nàng bỏ tôi để về lại Ðà Lạt, khi tình yêu đang
ấm áp? Khi những bông sứ đang run rẩy bên vạt hè đường ra Bãi Trước? Tại sao
nàng để cho giấc mộng tự nó chết đuối ngoài biển khơi, khi bão giông chưa hề?
Câu hỏi tôi rơi xuống một giờ phút tỉnh lặng. Rơi xuống mặt
bàn thiêm thiếp và trầy trụa những vết dao muỗng khắc dấu. Không có hình một
trái tim và mũi tên xuyên qua để cảnh giác người ngồi. “Anh có từng đi qua những
thảm kịch anh mới biết. Nàng tiếp. Người ra đi không bao giờ buồn chỉ có người ở
lại...” “Nhưng còn ngày xưa?” Tôi cố gắng
hỏi.
”Chuyện ngày xưa chỉ là kỷ niệm. Hãy quên. Hay để tự nó sẽ
trôi theo sông và đi vào biển”.
Tách cà phê nằm im không khói. Tiếng muổng vô tình gợi lên
một tấu khúc buồn. Trong khi những sợi nắng cuối cùng rớt trên má nàng. Những
sợi tóc óng ánh màu mật ong sáng rực một đường ngôi.
Căn phòng nhìn xuống một góc phố đường Phạm Ngũ Lão và chợ
Thái Bình.
Một nơi mà ngày xưa tôi từng qua lại khi về phép từ Ðà Lạt.
Có một quán cơm tấm năm kế tòa soạn của tạp chí Văn do Mai Thảo chủ trương. Một
lần tôi ghé lại lảnh tiền nhuận bút. Lần khác tình cờ ghé lại để nhận một lá thư
của một độc giả. Nơi góc đường đối diện với chợ Thái Bình là rạp hát bóng Khải
Hoàn. Một con đường xe lửa nằm vắt qua. Chia những góc đời chảy về nhiều hướng.
Những người bạn của tôi trong đoàn Văn Công Chí Linh đang có gia đình và sống ổn
định trong khu cư xá Võ Tánh. Ðồi diện với khu cư xá là đường Cống Quỳnh, mà một
đầu nối dài với đường Nguyễn Cu Trinh, con đường kỹ niệm thời thơ ấu của tôi và
bến xe đò lục tỉnh. Ðầu kia đụng rạp Quốc Thanh và khu Mã
Lạng.
Tôi hôn nàng trong ánh điện hiu hắt mà mọi căn phòng trọ
đều giống nhau như vậy tại Sài gòn thời đó. Một bình hoa bằng vải màu sắc tươi
tắn đặt trên chiếc bàn ngủ và một ngọn đèn nhỏ có phủ chụp, là hai vật chứng duy
nhất, thầm lặng.
Chúng tôi không chờ đợi để sa vào nhau trong khi vải vóc
thừa thải. Những câu nói cũng không cần thiết vì nụ hôn làm thay điều
đó.
Ngày đó tôi 45 tuổi trong khi nàng nhỏ hơn tôi tám
tuổi.
Có những mùa xuân hời hợt không để lại một chút hương phấn
hay một mùi hoa trong tâm hồn. Nhưng có những mùa xuân mang hơi lửa ngút ngàn ủ
trên môi miệng nhau. Những vòng tay mệt nhoài xóa lấp mọi băng giá.
Tôi mang mùa xuân đó trèo lên máy bay, giữa tiếng gầm rú
ngoài phi đạo. Mùa xuân sáng ngời hạnh phúc sau mười tám năm trong lòng chế độ
cộng sản. Tôi định sẽ không muốn nhớ mọi bất hạnh cùng đau khổ trong thời gian
qua. Tôi sẽ để riêng nó ra một ngăn đời nào đó, sau này sẽ nhớ lại. Nhưng khi
ngồi ngã dựa ra băng ghế phi cơ, mọi hình ảnh cũ đều lần lượt hiện về, như một
đoạn phim rời nhiều tập. Ngồi giữa vợ tôi là đứa con gái vừa lên bốn tuổi rưỡi.
Nó đang hướng về người tiếp viên phi hành để chờ đợi một ly nước ngọt mà nó thèm
thuồng từ lúc mới lên.
Ngọc không chịu ra tiển đưa tôi, chỉ có em trai nàng. Minh
nhét vào tay tôi một tờ giấy có ghi địa chỉ của chị Ngọc rồi chúc tôi lên đường
bình an.
Khi Minh rời khỏi phòng cách ly của phi trường, tôi mở tờ
giấy ghi địa chĩ của nàng ra xem. Những chữ viết mềm và nghiêng về một phía như
ngày nào. Có bao nhiêu lá thư nàng gời cho tôi suốt một mùa yêu đương? Không có
nhiều. Nhưng tôi viết cho nàng rất nhiều, những lá thư mà có lần giận tôi nàng
đòi đốt bỏ và nói:”Ðủ để đun nóng một ấm nước pha cà phê”. Nhưng nàng chỉ đùa.
Không bao giờ có được bếp lửa đó vì lúc lìa xa tôi tại căn gác trọ ở Vũng Tàu (ỡ
ngả tư Giếng Nước) nàng đã trả lại tôi chồng thư cũ. Những lá thư có cả bao bì
thẳng thớm được bó chặt bằng dây thun. “Trả lại anh để anh không cón bận tâm và
lo sợ có ngày em sẽ đốt”.
Chiếc phi cơ êm ả bay về hướng phi trường Thái Lan. Từ Thái
Lan chúng tôi sẽ làm thủ tục để đi tiếp. Phi trường Denver ở Seatle là chặng
cuối cùng. Giữa hai chặng này là phi trường Tokyo, Nhật Bản.
Những cụm mây bềnh bồng trôi xuôi dưới cánh máy bay. Tôi
buồn bã khi nghĩ rằng sẽ không còn cơ hội để trở về thăm nàng. Một phần đời thơ
mộng của tôi và làm tôi khôn lớn.
Tình yêu của nàng dành cho tôi, lúc nào cũng chứa đựng sự
cho đi nhiều hơn lấy lại. Tôi là một người lính, nên dễ nhìn đâu cũng thấy chết
chóc tàn phai, nên ít trân trọng những khoảnh khắc đẹp trong đời sống. Tôi sống
vội vàng và không bận tâm đến những hơi thở đã thở ra mổi ngày mang một rung cảm
như thế nào.Tôi tiêu pha những hạnh phúc không so đo giống như tiêu pha những
đồng lương ngày đầu tháng. Trong lúc nàng giữ gìn từng giá trị nhỏ nhoi.
Lúc gần mất nàng vĩnh viễn tôi mới bình tâm lại. Những giọt
đắng đọng trong lòng tôi và nàng, hình như chỉ có nàng cảm nhận
được.
Còn tôi, khi tôi học được bài học quí giá của tình yêu cũng
là lúc tình yêu không còn đươm hoa kết trái.
Có những ngả ba đường làm cho chúng ta phân vận không biết
đi về đâu. Tôi không muốn làm một kẻ phiền muộn đứng chôn chân bên những ngược
xuôi của người khác. Bài học cay đáng về một tình yêu mênh mông kia, tôi đã học
được và đang tìm cách viết ra. Những mùa xuân có phai và những màu đời có lợt,
nhưng tôi sẽ cố gắng làm mới lại. Không có ai tắm hai lần ở một dòng sông, nhưng
kinh nghiệm về một đổ vở sẽ làm cho chúng ta trưởng
thành.
Mùa xuân này tôi sẽ viết những câu thơ dài lê thê và những
bài tạp ghi tròn trịa một tình yêu mất dấu bên kia đời. Khuôn mặt nàng đang ngời
sáng với đôi mắt là hai vì sao đêm. Nhìn xuống.
Có thể là đêm sẽ rất mong manh. Tôi nghĩ vậy khi nhìn ra
ngoài vườn. Ðêm mùa đông luôn rét mướt những cây sồi tháng chạp. Mới hôm nào,
những đèn hoa bủa giăng trên đó, từ ngọn xuống đến tận gốc. Bây giờ dường như có
triệu chứng ũ rũ chờ ngày thu dọn.
Tôi vẫn là tôi, người đàn ông già nua đang chạy theo những
hương sắc bên đời. Không một nụ cười nở ra để lau dùm những nhau những ngấn lệ.
Nàng sẽ ra sao? Tôi vừa nghe được một tin từ một người quen
ở gần gia đình nàng. Bây giờ nàng đang gần 55 tuổi. Nàng không có vẽ gì là nhớ
về tôi- đứa con trai của mấy chục năm xưa đi ngang qua đời nàng- Khu chợ Mới
nhìn ngang qua Hồ Ðồng Nai Thượng vẫn còn gian hàng chạp phô của nàng. Nàng
không còn bận tâm nhiều về nó và chuyển dần công việc cho mấy đứa con gái. Giống
như ngày xưa mẹ nàng từng làm. Mỗi tháng nàng ăn chay vài ngày và lên chùa nghe
kinh mỗi dịp lễ lạc.
Con đường về mịt mùng bóng đêm. Tà áo trắng của nàng mệt
mõi như một vệt khói. Nó bay vút lên và chảy tràn lơ đảng. Lạnh như sương và
buồn như sông...
2007.
No comments:
Post a Comment